Bài văn mẫu Cảm nhận về đoạn trích Chí khí anh hùng của Nguyễn Du dưới đây nhằm giúp các em thấy được nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du khi xây dựng hình ảnh người anh hùng Từ Hải. Mời các em cùng tham khảo nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng.
Bạn đang xem: Cảm nhận về đoạn trích Chí khí anh hùng của Nguyễn Du
Contents
1. Sơ đồ gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
a. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều
– Giới thiệu đoạn trích Chí khí anh hùng.
b. Thân bài:
* Tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải
– Sống với Kiều được nửa năm thì Từ Hải đã nghĩ đến nghiệp lớn: “Động lòng bốn phương” công việc và chí lớn của người nam nhi.
– “Trượng phu” là để chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng với hàm hàm nghĩa khâm phục, ca ngợi.
– “Thoắt” sự mau chóng trong việc thay đổi tâm trạng, dáng vẻ của Từ Hải.
=> Từ Hải đã thoát khỏi tình cảm cá nhân nhanh chóng đi làm việc lớn của cuộc đời. Tư thế ra đi, lên đường hiên ngang, làm chủ vũ trụ.
– “Mênh mang” càng lộ ra độ rộng và cao của trời đất càng bật lên tư thế của chàng giữa vũ trụ rộng lớn.
– “Trông vời” cái nhìn rộng lớn, sáng suốt.
– Từ Hải một mình cưỡi ngựa lên đường thẳng dong, cho thấy ý chí quyết tâm và bản lĩnh của người anh hùng.
– Từ Hải ra đi không lưu luyến, bịn rịn tình cảm. Chàng coi Kiều như tâm phúc của mình nhưng không thể để tình cảm cá nhân ảnh hưởng đến nghiệp lớn.
* Lời hứa của Từ Hải với Kiều:
– Chàng hứa Kiều khi nào “bao giờ mười vạn tinh binh”, “tiếng chuông ngập đất bóng tinh rợp đường”, “Làm cho rõ mặt phi thường” sự nghiệp ổn định sẽ cưới nàng cho nàng cuộc sống hạnh phúc ấm no.
– Sự tự tin và khẳng định của Từ Hải: một năm sau sẽ mang vinh quang về
* Sự dứt khoát của Từ Hải:
– Những động từ “quyết”, “dứt áo”, “ra đi” đã thể hiện hành động dứt khoát, mạnh mẽ, không do dự của người anh hùng.
– Giữa không gian “gió mây”, “dặm khơi” kì vĩ, rộng lớn, con người hiện lên với tư thế sánh ngang tầm vũ trụ.
– Hình ảnh “chim bằng” sải cánh trên bầu trời cao rộng, trong bao la “dặm khơi” cùng gió, cùng mây đã làm nổi bật tư thế của người anh hùng có bản lĩnh phi thường.
* Nghệ thuật:
– Tính chất ước lệ tượng trưng theo lối văn học cổ trung đại, lời thơ sâu sắc.
c. Kết bài:
– Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Em hãy nêu cảm nhận về bài thơ Chí khí anh hùng dưới dạng một bài văn ngắn.
Gợi ý làm bài:
3.1. Bài văn mẫu số 1
Bị đẩy vào lầu xanh lần thứ hai, Kiều ở trong tình trạng vô cùng đau đớn, tuyệt vọng: “Biết thân chạy chẳng khỏi trời – Cũng liều một phấn cho rồi ngày xanh”. Từ Hải xuất hiện đột ngột ở lầu xanh và tìm đến Kiều – một người tri kỉ. Với “con mắt xanh” tinh tường, Kiều đã mau chóng nhận ra Từ Hải là một anh hùng ngay từ lúc Từ chưa làm nên sự nghiệp. Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh và lấy nàng làm vợ, nhưng tình yêu không thể níu giữ chân Từ Hải. Đang sống êm đềm và hạnh phúc bên người đẹp, Từ Hải đột ngột từ biệt Kiều ra đi lập nghiệp anh hùng.
Đây là đoạn thơ sáng tạo của Nguyễn Du. Đoạn trích thể hiện khí phách anh hùng của Từ Hải qua lời chia tay Thúy Kiều. Đoạn trích tập trung khắc họa hình ảnh người anh hùng Từ Hải – người anh hùng với chí khí cao đẹp, với quyết tâm thực hiện lí tưởng, khát vọng lớn lao. Đặt Từ Hải trong cảnh chia tay với Kiều trong cảnh “hương lửa đương nồng”, Thúy Kiều lại “một lòng xin đi” cho vẹn “chữ tòng”, trong hoàn cảnh đó Từ Hải có điều kiện để giãi bày, bộc lộ khát vọng, chí khí của mình. Chí anh hùng chính là vẻ đẹp, là khí phách của Từ Hải nó trở thành cảm hứng bao trùm cả đoạn thơ.
Trong đoạn thơ, Nguyễn Du đã sử dụng nhiều hình ảnh không gian “bốn phương”, “bốn bề”. Đó là không gian của vũ trụ rộng lớn, khoáng đạt trước mặt người anh hùng, trời bể như mở ra mênh mang và con người ấy “thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong”. Không gian đó hoàn toàn phù hợp với tính cách của Từ – một người “đội trời đạp đất”, “dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi”. Không gian đó chắp cánh cho những ước mơ, khát vọng lớn lao phi thường của Từ.
Thúy Kiều mong có thể đi cùng chàng để làm vẹn chữ “tòng”, một là có thể ở bên chàng, hai là cũng có thể chăm sóc đỡ đần nhau những lúc ốm đau bệnh tật. Dù đường đi có khó khăn, có nguy hiểm dẫu sao được ở bên nhau là nàng sẽ quyết đi. Nhưng người quân tử đi thực hiện ước mơ hoài bão thì không thể có một mối bận tâm nào khác. Từ Hải khẽ trách Thúy Kiều rằng sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình.
Trách khẽ rồi chàng lại khuyên nhủ cũng như bày tỏ ước nguyện của mình. Chàng hứa với Thúy Kiều sẽ đón nàng khi thành công:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Bằng ngay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì
Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Khi nào chàng có thể nắm trong tay “mười vạn tinh binh” và trở về trong tiếng chiêng chúc mừng hồ hởi, bóng cờ rợp đường thì khi ấy chàng sẽ rước nàng về để làm lễ nghi gia. Chàng sẽ cho Thúy Kiều một danh phận thật sự. Từ đó ta có thể thấy được ý chí quyết tâm lên đường của Từ Hải là rất lớn, chàng tự ý thức được việc đưa Kiều theo không phải là điều tốt. Bởi chàng không muốn ảnh hưởng đến ước mơ của mình cũng không muốn nàng phải chịu gian khổ. Thân gái dặm trường đến đâu cũng không thể bằng đấng nam nhi anh hùng nay đi mai ở được. Hơn nữa giờ đây bốn bể là nhà không biết ở đâu đi đâu, cho nàng theo thì chỉ thêm bận tâm mà thôi. Chàng mong Thúy Kiều hiểu cho lòng mình và mong nàng đợi chờ ít lâu, lâu nhất cũng một năm là chàng sẽ quay trở về với nàng. Nói xong những lời chia tay cuối Từ Hải dứt áo lên đường để lại đằng sau nàng Kiều trông theo.
Có thể nói Nguyễn Du đã xây dựng thành công nhân vật Từ Hải – một kiểu nhân vật anh hùng. Chàng không chỉ đẹp về ngoại hình “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” mà còn đẹp bởi ý chí, khí phách anh hùng phi thường hơn người. Chàng không để chữ tình làm ảnh hưởng đến chữ chí của mình. Đây quả là điều đáng khen của bậc nam nhi đầu đội trời chân đạp đất.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Hội ngộ – rồi chia li đó là hai mặt của một quá trình. Nó là qui luật tự nhiên trong đời sống con người và cũng như là qui luật tình cảm riêng tư khó nói thành lời. Chẳng thế mà chia li đã trở thành thi tài, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, nhà văn đi vào khai thác sao. Từ trong câu ca dao quen thuộc: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi; Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?” đến “Vầng trăng ai xẻ làm đôi; Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường” (Truyện Kiều – Nguyễn Du) và ngay cả Cuộc chia li màu đỏ (Nguyễn Mĩ), ta vẫn bắt gặp những giọt nước long lanh, nóng bỏng, sáng ngời của kẻ ở – người đi. Nhưng có một cuộc chia li làm bạn đọc ấn tượng bởi Chí khí anh hùng, tràn đầy niềm tin lạc quan, tươi sáng chứ không như:
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san.
Đó là cuộc chia li của Từ Hải với Thuý Kiều để lên đường đi khởi nghĩa. Đoạn Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) thuộc phần Gia biến và lưu lạc trên đoạn trường mười lăm năm. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thuý Kiều được gặp Từ Hải, người anh hùng rồi đây sẽ cứu vớt nàng ra khỏi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người mà đại diện cho lí tưởng, đạo lí công bằng mà Nguyễn Du gửi gắm khi xây dựng trong tác phẩm. Người mà Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng, tình cảm, khối mâu thuẫn khó giải quyết bằng lời của tác giả.
Trong “Truyện Kiều”, nếu nhân vật Thúy Kiều được Nguyễn Du xây dựng như một biểu tượng cho cái đẹp tinh túy, lí tưởng của hiện thực cuộc sống thì nhân vật Từ Hải, qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, lại được Nguyễn Du xây dựng như một hình tượng đầy tính chất lãng mạn, chất anh hùng ca. Mở đầu đoạn thơ:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Bốn câu thơ là lời của tác giả miêu tả về tâm trạng và hành vi của Từ Hải. Nhà thơ gọi Từ Hải là “trượng phu” – người đàn ông có tài, đáng trọng là đã thể hiện sự yêu quý trân trọng của ông với nhân vật này. Tình yêu và sự nghiệp, cả hai đều có trong con người của Từ Hải. Tình yêu ấy là “nửa năm hương lửa đương nồng”, sự nghiệp ấy là “động lòng bốn phương”. Những ngôn từ ước lệ ấy giúp người đọc nhận ra cả hai thứ tình ấy Từ Hải đều quý. Và chỉ ở bốn câu thơ trên mà xét thì “động lòng bốn phương”, muốn lập công danh sự nghiệp mạnh hơn “hương lửa đương nồng”. Cứ tưởng tượng ra hình ảnh của một tráng sĩ “râu hùm, hàm én, mày ngài” đứng khoanh tay lặng hướng tầm mắt vào cõi xa xăm thì người đọc sẽ hiểu phần nào tâm trạng lúc này của con người:
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chào”.
Những hình ảnh ước lệ, thậm xưng, đặc tả, kết hợp với các từ Hán Việt trang trọng, cùng với cách ngắt nhịp cân xứng, mạnh mẽ trong các dòng thơ chứa tầm vóc, tài năng, chí hướng nêu trên như đã khẳng định và in sâu tính cách một nhân vật phi thường với tâm hồn chứa chan lãng mạn ước mơ, tung hoành ngang dọc, muốn đổi thay thời thế nhân sinh… Trong ý nghĩa đó, phải chăng hình ảnh Từ Hải đã thành ước mơ khát vọng trong tâm hồn Nguyễn Du: Ông muốn cứu vớt đời Kiều, một tâm hồn, một vẻ đẹp, một tài năng tiêu biểu cho một tinh hoa của hiện thực cuộc đời?
Sau lời của nhà thơ viết về tâm trạng và quyết định của “trượng phu” là lời đối thoại của đôi vợ chồng. Kiều thì muốn hành động theo luân lí đạo Nho truyền thống nên đã tâm sự với Từ Hải:
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Thuý Kiều là người sâu sắc đến mấy cũng không thoát khỏi chuyện phu – thê quyến luyến. Nàng chỉ muốn theo Từ Hải đi để làm trọn bổn phận làm vợ của mình, mà không nghĩ đến việc lớn của chàng. Vì thế Từ Hải đã trách khéo nàng tâm phúc tương tư tức là hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc như thế, cần gì phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng như đạo Nho bắt làm. Sau đó chàng động viên Thuý Kiều ở nhà yên tâm đợi tin vui:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chuông dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Còn bây giờ giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, nàng mà đi theo chỉ làm bận tâm thêm, huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vậy nàng hãy dằn lòng chờ đợi chỉ một hai năm vội gì. Thế rồi chàng:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
Hình con chim bằng được lấy từ điển tích từ truyện ngụ ngôn kể rằng chim bằng là một giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cho những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn Du đã ví Từ Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay lên cùng gió mây.
Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự do thoả chí vẫy vùng, không bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó một không gian nhỏ bé thường ngày của người bình thường. Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử chỉ ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, đứt khoát như: thoắt đã, thẳng rong, sao chưa thoát khỏi, dậy đất, phi thường, vội gì, quyết lời dứt áo ra đi, đã lìa… Ngoài ra thêm các từ chữ Hán để bộc lộ tư tưởng tình cảm của tác giả, rồi dùng điển cố, điển tích… và cả xây dựng thời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang, bằng tiện…
Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải dường như xuất hiện từ một giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn khổ áp bức hằng ôm ấp. Vì vậy, mà khi xây dựng, Nguyễn Du đã có những sáng tạo các phương thức nghệ thuật riêng, để biểu đạt khát vọng của mình và của thời đại Nguyễn Du sống – khát vọng về sự tự do, công bằng lẽ phải. Từ một cuộc chia li mà nói lên được toàn bộ chí khí anh hùng của Từ Hải.
–
Đăng bởi: Trường Tiểu học Thủ Lệ