Giáo DụcLớp 6

Phân tích nhân vật Em bé thông minh (hay nhất) | Văn mẫu lớp 6

Nhân vật em bé thông minh trong truyện Em bé thông minh là đại diện cho trí khôn của dân gian, một em bé nông thôn lại được nhà vua trọng dụng và phong làm trạng nguyên. Để hiểu hơn về sự thông minh của em bé này, Trường Tiểu học Thủ Lệ mời các em cùng tham khảo bài văn mẫu Phân tích nhân vật Em bé thông minh dưới đây. Chúc các em học tập thật tốt nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Em bé thông minh.

Bạn đang xem: Phân tích nhân vật Em bé thông minh (hay nhất) | Văn mẫu lớp 6

2. Dàn bài chi tiết

a. Mở bài:

– Giới thiệu truyện cổ tích “Em bé thông minh” và nhân vật em bé: Truyện cổ tích “Em bé thông minh” là một truyện cổ tích đặc sắc của dân tộc ta, truyện đã đưa ra các thử thách để nhân vật vượt qua, khẳng định trí thông minh của mình và tạo nên sức hấp dẫn của câu chuyện.

b. Thân bài:

– Sự nhanh nhẹn và tài trí của em ở lần giải câu hỏi của viên quan: Trong khi người cha lúng túng không biết trả lời thì em bé đã nhanh chóng đáp trả bằng cách hỏi ngược lại viên quan “ngựa của ông đi một ngày được mấy bước?”

– Sự tài trí trong những lần thử thách của vua: Đặt lại cho nhà vua một tình huống ngược lại, mong cha sinh cho mình thêm một em bé; yêu cầu từ cây kim rèn ra một con dao để xẻ thịt chim.

– Tài trí thông minh từ kinh nghiệm dân gian đã giúp em giải đố giúp vua: Chỉ bằng một câu hát rất ngắn gọn mà em đã giải được câu đố của quan sứ, em đã giải câu đố bằng chính những kinh nghiệm thực tiễn và trí khôn của dân gian.

c. Kết bài:

– Em bé thông minh là đại diện cho trí khôn của dân gian, một em bé nông thôn lại được nhà vua trọng dụng và phong làm trạng nguyên.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Em hãy viết một bài văn phân tích về nhân vật em bé thông minh trong truyện Em bé thông minh.

Gợi ý làm bài:

3.1. Bài văn mẫu số 1

“Em bé thông minh” là một trong những truyện cổ tích nổi tiếng trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật chính – em bé thông minh.

Câu chuyện được mở đầu với tình huống một ông vua nọ vì muốn tìm người tài giúp nước nên sai một viên quan đi dò la khắp nơi. Viên quan đi đến đâu cũng ra những câu đố oái oăm nhưng không có ai trả lời được.

Một hôm nọ, viên quan đi qua cánh đồng ở một làng kia, thấy bên vệ đường có hai cha con đang làm ruộng, viên quan liền lại gần và hỏi người cha rằng trâu của ông một ngày cày được bao nhiêu đường. Người cha chưa biết trả lời thế nào thì đứa con đã hỏi lại viên quan rằng ngựa của ông ta một ngày đi được mấy bước. Quan nghe đến đấy thì nghĩ bụng đã tìm ra nhân tài, liền về bẩm báo với nhà vua. Khi đối mặt với một câu hỏi oái oăm của viên quan thì câu trả lời của cậu bé cũng là một câu hỏi cũng oái oăm không kém, đẩy người hỏi vào thế bị động.

Việc tạo ra thử thách để nhân vật bộc lộ được tài năng, phẩm chất và trí thông minh của mình. Đây là một yếu tố không thể thiếu với truyện cổ tích kiểu nhân vật thông minh. Đồng thời, các thử thách cũng nhằm tạo tình huống cho sự phát triển tính cách của nhân vật cũng như sự phát triển của cốt truyện.
Với mỗi thử thách, em bé đều có cách giải quyết của cậu bé đầy thú vị. Đó là dùng cách “gậy ông đập lưng ông”, để người đưa ra câu đố tự cảm thấy phi lý. Cách giải quyết thể hiện kinh nghiệm đời sống phong phú. Có thể thấy rằng cách giải quyết của cậu bé đầy thú vị: dùng cách “gậy ông đập lưng ông”, để người đưa ra câu đố tự cảm thấy phi lý. Cách giải quyết thể hiện kinh nghiệm đời sống phong phú.

Ngoài ra, nhân vật em bé thông minh ở trong truyện không có tên gọi, mà chỉ được gọi một cách chung như “em bé”, “cậu bé”. Có thể thấy điều này là do đặc điểm của các truyện cổ tích. Nhân vật trong truyện là nhân vật chức năng, được xây dựng để thực hiện một mục đích nào đó. “Em bé” trong truyện thuộc kiểu nhân vật tài năng, đại diện cho trí tuệ của dân gian.

Tóm lại, truyện đã đề cao mưu trí tài năng của em bé. Nhờ có sự thông minh của mình mà em bé được ban thưởng, phong làm trạng nguyên và sống ở một dinh thự cạnh hoàng cung để tiện hỏi han.

3.2. Bài văn mẫu số 2

“Em bé thông minh” là truyện cổ tích đặc sắc của dân tộc ta. Truyện không lấy những yếu tố tưởng tượng, hư cấu để tạo sức hút mà đưa ra các thử thách để nhân vật vượt qua là nhân tố tạo nên sự hấp dẫn cho câu chuyện. Nhân vật em bé đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi trí thông minh, lanh lợi, nhanh trí, em cũng chính là đại diện cho trí khôn dân gian.

Truyện được bắt đầu bằng tình huống nhà vua muốn tìm người hiền tài trên cả nước về giúp sức cho triều đình, bởi vậy vua sai người đi khắp nơi đưa ra những câu đố oái oăm nhằm thử thách mọi người. Một ngày nọ, viên quan gặp hai cha con em bé thông minh đang cày ruộng trên đồng. Cách vào chuyện vô cùng tự nhiên, hợp lý tạo ấn tượng với người đọc. Cũng từ đây em bé thông minh đã trải qua hàng loạt thử thách để chứng minh trí tuệ, sự thông minh của mình.

Viên quan gặp hai cha con, ông đã đưa ngay câu đố: trâu một ngày cày được mấy đường. Khi người cha vẫn còn đang lúng túng, chưa biết trả lời ra sao thì em bé đã nhanh chóng trả lời bằng cách hỏi ngược lại viên quan: “ngựa của ông đi một ngày được mấy bước”. Cậu bé không trả lời trực tiếp nhưng chỉ cần thông qua câu hỏi vặn lại của em ta đã có thể thấy em là một cậu bé thông minh, nhanh nhạy.

Lần thứ hai, vua là người trực tiếp đưa ra thử thách, ngài đưa cho em bé thông minh ba thúng gạo nếp, ba con trâu đực và ra lệnh phải nuôi ba con trâu ấy đẻ ra được chín trâu con. Trong khi cả làng ai nấy đều lo sợ thì em bé vẫn ung dung, bình thản, bảo mọi người mổ trâu khao cả làng. Em bé vốn đã hiểu được thử thách của nhà vua, nên khi đến gặp nhà vua em đã đặt lại cho nhà vua một tình huống ngược lại, mong cha sinh cho mình thêm một em bé. Nhà vua đã mắc bẫy, phải bật cười và thừa nhận sự thông minh của em. Em đã rất khéo léo chỉ ra cho vua thấy những điểm bất hợp lí giữa hai sự việc có sự tương đồng như nhau.

Để có thể chắc chắn tin rằng em bé là một người thông minh, nhà vua đã tiếp tục đưa ra thử thách cuối cùng: ban cho em chim sẻ và yêu cầu em làm thành ba mâm cỗ. Cũng như lần trước, em bé thông minh lại đặt ra yêu cầu ngược lại cho nhà vua, xin nhà vua rèn cho ba con dao từ một cây kim khâu để làm thịt chim. Đến chi tiết này, quả là em bé thông minh thực sự có tài trí, hiếm có ai lại phản ứng nhạy bén được như em, lần thử thách này nhà vua đã phải tâm phục, khẩu phục tài trí thông minh của em. Những thử thách lớn nhất đối với em chính là câu đố của sứ thần nước láng giềng. Khi mà tất cả vua quan đại thần đều bó tay thì em chỉ cần nghe xong đã giải ra đáp án:

“Tang tình tang! Tang tình tang!

Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng,

Bên thời lấy giấy mà bưng,

Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang

Tang tình tang…”

Chỉ bằng một câu hát rất ngắn gọn mà em đã giải được câu đố của quan sứ, em đã giải câu đố bằng chính những kinh nghiệm thực tiễn và trí khôn của dân gian.

Tóm lại qua những lần giải đố tăng dần mức độ khó, tác giả dân gian ca ngợi trí thông minh của người dân. Hình ảnh cậu bé thông minh cùng truyện cổ tích cùng tên đã trở thành biểu tượng đẹp mãi trường tồn trong trái tim mỗi con người Việt Nam bao thế hệ.

Đăng bởi: Trường Tiểu học Thủ Lệ

Chuyên mục: Giáo dục, Lớp 6

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button