Giáo Dục

Top 4 bài phân tích giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương siêu hay

Bạn đang xem: Top 4 bài phân tích giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương siêu hay

Nội dung Tải về Mục lục văn bản

Giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương là gì? Mời các bạn cùng tham khảo các bài văn mẫu phân tích giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương trong bài viết sau đây của Trường Tiểu học Thủ Lệ để thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

  • 8 mẫu đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương siêu hay

Sau đây là chi tiết dàn ý phân tích giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương giúp các bạn học sinh nắm được các ý chính cần phân tích tránh không bị lạc đề.

1. Dàn ý phân tích giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương

1, Mở bài:

– Nguyễn Dữ là nhà văn nổi tiếng ở thế kỉ XVI với tác phẩm “Truyền kì mạn lục”, trong đó tiêu biểu là “Chuyện người con gái Nam Xương”. Dựa trên cốt truyện dân gian, Nguyễn Dữ đã lên tiếng tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa, những cổ tục nghiệt ngã, đồng thời thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước thân phận con người nói chung, người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến; trân trọng đề cao những vẻ đẹp của người phụ nữ…

– Điều đó đã thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của thiên truyện.

2, Thân bài:

a) Giải thích

– Giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học:

+ Hiểu một cách chung nhất, nhân đạo là lòng yêu thương con người.

+ Một tác phẩm văn học có giá trị nhân đạo là khi tác phẩm đó thể hiện thái độ bênh vực, cảm thông sâu sắc trước những nỗi đau khổ của con người, lên tiếng tố cáo tội ác của những thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống chính đáng của con người.

– Giá trị nhân đạo là một trong những yếu tố quan trọng để làm nên thành công cho Chuyện người con gái Nam Xương

b) Phân tích

Giá trị nhân đạo trong truyện là sự trân trọng đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, những khát vọng chân chính:

– Nàng VN đẹp về hình thức: “ tư dung tốt đẹp”

– Nàng VN đẹp về phẩm chất, tâm hồn:

+ Nàng là người phụ nữ trong trắng, thủy chung

+ Nàng là người mẹ yêu con, người vợ đảm đang tháo vát.

+ Nàng là người con dâu hiếu nghĩa.

+ Nàng còn là người nặng tình, nặng nghĩa với gia đình quê hương

Đặt trong xã hội phong kiến, người phụ nữ bị rẻ rúng coi thường, Nguyễn Dữ đã trân trọng đề cao vẻ đẹp của VN (cả khi nàng đã sang một thế giới khác). Đó chính là ý nghĩa nhân văn, là nét bút thần diệu để viết lên áng “thiên cổ kì bút”

– Giá trị nhân đạo trong truyện còn là niềm thương cảm sâu sắc trước những nỗi đau khổ của con người.

+ Trong suốt đoạn truyện Vũ Nương sống ở trần gian, Nguyễn dữ luôn thể hiện một thái độ yêu thương, đồng cảm với nỗi vất vả mà người phụ nữ phải chịu đựng: phái gánh vác giang sơn nhà chồng, chăm sóc mẹ già, con dại khi chồng đi xa; chồng độc đoán chuyên quyền, vũ phu, hay ghen, đa nghi; nỗi oan khiên và cái chết bi thảm của nàng. Lời văn đọc lên cho thấy xót xa, đau đớn của Nguyễn Dữ thấm vào trong từng câu chữ.

+ Khi nàng sống ở thủy cung, với chất truyền kì huyền diệu, Nguyễn Dữ đã nói lên ước mơ mà người phụ nữ luôn khao khát trong tương lai: một cuộc sống tốt đẹp hơn. Dẫu chỉ là khát vọng nhứng điều đó đã nói lên được tấm lòng, trái tim chan chứa tình yêu thương của nhà văn.

– Giá trị nhân đạo trong truyenj là sự tố cáo lên án những thế lực tàn bạo, tố cáo những cổ tục nghiệt ngã có trong xã hội phong kiến.

+ Chuyện hôn nhân không phải bằng tình yêu đôi lứa mà bằng trao đổi mau bán cho thấy thân phận người phụ nữ nhỏ nhoi, phụ thuộc..

+ quan niệm trọng nam khinh nữ khắc nghiệt, coi nam quyền là tuyệt đối, nên sự ghen tuông mù quáng của TS đã gián tiếp giết chết VN.

+ Khi Vũ Nương bị nghi oan không thể bày tỏ, phải tự tử để khẳng định phẩm giá của mình, Nguyễn Dữ đã không để Vũ Nương chết bột phát trong cơn phẫn uất như câu chuyện cổ tích Vợ chàng Trương mà chết rất tỉnh táo và lí trí, khiến sức tố cáo phê phán trong tác phẩm càng sâu sắc hơn. Xã hội phong kiến hà khắc không cho người phụ nữ một con đường sống, họ phải chọn cõi chết làm chốn dung thân.

– Tố cáo chiến tranh phi nghĩa góp phần gây ra sự đau khổ, tan vỡ của những mái ấm gia đình.

Những bất công ngang trái của xã hội phong kiến đã làm người phụ nữ không được sống hạnh phúc, quyến sống cũng không được đảm bảo, bất hạnh, khổ đau có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nguyễn Dữ đã mạnh mẽ lên tiếng bênh vực cho người phụ nữ và tố cáo lên án sự bất công trong xã hội. Đây cũng là một trong những nét bút thần diệu để Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ vẫn còn nguyên sự hấp dẫn người đọc ngày nay.

3, Kết luận:

– Giá trị nhân đạo trong truyện không chỉ bộc lộ thái độ viết truyện của nhà văn mà còn là vẻ đẹp của tác phẩm để tạo nên sự cuốn hút vfa hấp dẫn. Tác phẩm đã giáo dục chúng ta lòng yêu thương con người sâu sắc, quyết tâm sống và đấu tranh vì quyền sống và hạnh phúc của con người.

– Giá trị nhân đạo là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm nên sự thành công cho Chuyện người con gái Nam Xương – một tác phẩm tiêu biểu trong “thiên cổ kì bút” Truyền kì mạn lục.

2. Phân tích giá trị nhân đạo trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ – mẫu 1

Nhân vật chính trong tác phẩm là Vũ Nương, một người phụ nữ trung trinh, tiết hạnh, đẹp người, đẹp nết nhưng lại bị chồng nghi oan thất tiết. Do không có cơ hội để minh oan, giãi bày, Vũ Nương đành phải nhảy sông tự vẫn để chứng minh sự trong sạch của mình. Kết thúc truyện là hình ảnh Vũ Nương hiện về thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa lòng sông nói lời tạ từ rồi biến mất.

Trước hết, “Chuyện người con gái Nam Xương”, mang đậm giá trị hiện thực sâu sắc. Một tác phẩm văn học có giá trị hiện thực khi nó phản ánh một cách chân thực những nét bản chất nhất của đời sống xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Vì thế, từ “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã phản ánh chân thực một xã hội phong kiến bất công, gây nhiều khổ đau cho người phụ nữ. Điều này được thể hiện qua hình tượng nhân vật Trương Sinh. Có thể nói, Trương Sinh là con đẻ của xã hội Nam quyền phong kiến. Trong truyện, Trương Sinh được giới thiệu là con nhà hào phú “xin trăm lạng vàng cưới vợ” nhưng lại ít học, luôn có tính đa nghi, ghen tuông, bảo thủ, độc đoán thiếu bao dung với cả người vợ của mình… Và đây chính là những bản chất của xã hội phong kiến nam quyền “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, đề cao người đàn ông trong gia đình và xã hội, đã dồn đẩy thân phận người đàn bà vào số phận oan nghiệt. Đồng thời, trong xã hội ấy, chiến tranh loạn lạc phi nghĩa, liên miên xảy ra đã phá tan đi biết bao nhiêu là hạnh phúc gia đình, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện, đẩy họ hoàn cảnh “cùng đường tuyệt lộ”. Trương Sinh phải đi lính, xa cách mẹ già và người vợ mới cưới. Ở nhà, bà mẹ vì nhớ thương con mà sinh ra bệnh tật rồi mất. Mọi công việc dồn đẩy lên đôi vai nhỏ bé hao gầy của Vũ Nương. Nàng vừa phải một mình nuôi con, vừa chăm sóc, thuốc thang cho mẹ chồng cho tới khi mẹ mất. Ba năm bặt vô âm tín, Trương Sinh bỗng trở về trong niềm vui sướng của gia đình. Nhưng vì tin vào lời nói ngây thơ của bé Đản “Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”, Trương Sinh đã một mực cho rằng vợ mình thất tiết. Lễ giáo phong kiến bất công đã dung túng cho người đàn ông, cho họ những quyền hành có thể đối xử tệ bạc với người phụ nữ của mình, không cho người phụ nữ cất lên tiếng nói phân trần, giảng giải nên đã vội vàng kết án Vũ Nương là người không đoan chính. Để rồi nàng đành phải trầm mình dưới nước sông Hoàng Giang lạnh lẽo để rửa sạch mối oan tình. Mặc dù, đến cuối truyện, Vũ Nương đã được trả lại danh dự, nhân phẩm và được bất tử hóa đến muôn đời nhưng Vũ Nương đã phải trả một cái giá quá đắt. Hạnh phúc mãi mãi tuột khỏi tầm tay. Nàng và chồng con không còn có thể đoàn tụ được nữa rồi. Từ nay, âm dương cách biệt, chia lìa đôi ngả. Chồng thì mất vợ, con thì mất mẹ. Cái lí mà Vũ Nương đưa ra khi không thể trở về dương gian được nữa là vì muốn cảm tạ ân đức của Linh Phi cứu giúp. Nhưng, đâu chỉ có vậy, Nguyễn Dữ muốn nói với người đọc rằng: chừng nào xã hội phong kiến còn tồn tại những bất công với người phụ nữ thì chừng đó người phụ nữ không có đất mà dung thân, còn phải tiếp tục phải chịu đọa đầy, thậm chí là phải đánh đổi cả mạng sống của mình nữa.

Không dừng lại ở đó, “Chuyện người con gái Nam Xương” còn mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Một tác phẩm văn học có giá trị nhân đạo khi tác phẩm đó lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, hắc ám đã chà đạp lên số phận của con người bất hạnh, qua đó nhà văn thể hiện niềm cảm thương, sẻ chia sâu sắc trước những tấn bi kịch mà họ phải trải qua, đồng tình, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người nhân vật và chỉ ra cho họ một con đường giải thoát.

Trước hết, thông qua cuộc đời bất hạnh và chịu nhiều oan khuất của Vũ Nương, nhà văn đã lên án, tố cáo một xã hội phi nhân tính, đẩy người phụ nữ vào con đường cùng không lối thoát, cướp đi của họ quyền hạnh phúc, quyền sống và quyền được công bằng. Có thể nói, dưới cái nhìn của Nguyễn Dữ, Trương Sinh là điển hình của các ác, của bạo chúa gia đình. Vì thế, Nguyễn Dữ càng thể hiện niềm xót thương cho người phụ nữ bao nhiêu thì ông lại càng căm giận, lên án bấy nhiêu sự bất công, ngang trái trong xã hội nam quyền. Cho nên, trong lời bình ở cuối truyện, nhà văn đã lên tiếng đòi lại lại công bằng cho người phụ nữ bằng những câu văn rất nhẹ nhàng, thấm thía, nghiêm khắc nhắc nhở : “Than ôi! Những việc từa tựa như nhau, thật là khó tỏ mà dễ hoặc. Cho nên quăng thoi đứng dậy, tuy mẹ bậc đại hiền cũng phải phân vân (13), mất búa đổ ngờ tuy con người láng giềng cũng khó chối cãi (14), ý dĩ đầy xe, Quang Võ đổ ngờ lão tướng (15), “trói lại mà giết”, Tào Tháo đến phụ ân nhân (16), việc Thị Thiết cũng giống như vậy. Nếu không được trời xét tâm thành, nước không làm hại, thì xương hoa vóc ngọc, đã chôn vào họng cá ở dưới lòng sông, còn đâu được lại thông tin tức để nết trinh thuần được nhất nhất bộc bạch ra hết. Làm người đàn ông, tưởng đừng nên để cho giai nhân oan uổng thế này”. Đó là những lời bình chân tình, xuất phát từ trái tim thương người bất hạnh, đặc biệt là người phụ nữ của nhà văn Nguyễn Dữ dành cho nhân vật của mình.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở chỗ nhà văn đã ngợi ca những vẻ đẹp vốn có của người phụ nữ Việt Nam qua nhân vật Vũ Nương. Đó là người phụ nữ bình dân, người phụ nữ của gia đình. Nàng được giới thiệu là người con gái tính đã thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Khi mới về nhà chồng, trong cuộc sống hôn nhân gia đình, Vũ Nương luôn cư xử đúng khuôn phép, nhường nhịn rất đúng mực, không bao giờ để cho vợ chồng phải thất hòa. Trong buổi đưa tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy và dặn dò Trương Sinh bằng những lời nói đầy nghĩa tình, thắm thiết. Nàng không mong vinh hiển, chỉ cần chồng mang về hai chữ “bình yên”. Ở nhà, Vũ Nương nhớ thương chồng da diết, nàng một mình sinh con, nuôi dạy con, vừa đóng vai trò là một nguời mẹ, lại vừa mượn bóng mình ban đêm mà làm người cha. Nàng thay chồng làm tròn bổn phận, trách nhiệm của của một người con dâu hiếu thảo: chăm sóc, thuốc thang, lễ bái, hết lòng khuyên lơn mẹ chồng. Đến khi mẹ chồng mất, nàng tổ chức ma chay tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình. Vì thế, bà mẹ chồng đã viện cả trời xanh để chứng minh cho lòng hiếu thảo của cô con dâu: “Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Khi chồng đi lính trở về, một mực khăng khăng cho rằng nàng thất tiết, Vũ Nương đã ra sức phân trần mong mỏi chồng hiểu thấu lòng mình, tìm cách cứu vãn hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Cuối cùng “cái thú vui nghi gia nghi thất” đã không còn ” bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau chờ chồng đến hóa đá cũng không còn có thể được nữa “đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Nàng đã trẫm mình xuống dòng nước Hoàng Giang lạnh lẽo. Đó là hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, nhân phẩm trong một nỗi đau tuyệt vọng. Tóm lại, Nguyễn Dữ đã phát hiện và khẳng định những đốm sáng nhân văn tốt đẹp bên trong người phụ nữ. Ông thể hiện rõ thái độ bênh vực cho những người phụ nữ xấu số, bất hạnh.

Để thể hiện niềm cảm thông, sự chia sẻ, niềm xót thương với nỗi khổ đau của người phụ nữ đương thời, Nguyễn Dữ đã đòi lại sự công bằng, hạnh phúc cho họ bằng việc sáng tạo ra đoạn truyện dưới thủy cung, vạch ra cho người phụ nữ một con đường giải thoát bi kịch. Sau khi nhảy sông tuần tiết, nàng may mắn được Linh Phi – vợ vua biển Nam Hải cứu vớt. gặp được Phan Lang dưới thủy cung, nàng nhờ Phan Lang đem về gửi cho Trương Sinh chiếc hoa vàng cài tóc, dặn dò: “nếu còn nhớ tới tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần dưới nước, tôi sẽ trở về”. Trương Sinh nghe lời, lập đàn tràng ba ngày, ba đêm, Vũ Nương thấp thoáng hiện về trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, võng lọng, cờ kiệu rực rỡ đầy sông. Vũ Nương nói lời đa tạ Linh Phi và tạ từ Trương Sinh rồi biến mất. Chi tiết này, không chỉ giúp hoàn thiện thêm nét đẹp tính cách của nhân vật mà còn chứng tỏ Vũ Nương vô tội. Ở thế giới bên kia, nàng được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Tạo nên kết thúc truyện như thế, Nguyễn Dữ đã đáp ứng được ước mơ của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp, thể hiện nỗi khát khao một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ đương thời.

Bằng nghệ thuật kể truyện độc đáo, xen lẫn giữa hiện thực và kì ảo, giữa tình tiết đời thường với sự sáng tạo của nhà văn, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật Vũ Nương – người đại diện cho bi kịch bất hạnh của người phụ nữ. Thông qua số phận cuộc đời đầy nước mắt của nàng, nhà văn đã mạnh dạn lên án, tố cáo một xã hội bạo tàn, phi nhân, tồn tại với rất nhiều những bất công ngang trái, dồn đẩy người phụ nữ vào đường cùng không lối thoát. Đồng thời qua câu chuyện, nhà văn đã lên tiếng đòi lại sự công bằng, hạnh phúc cho những người phụ nữ đương thời, khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp vốn có của họ. Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc giàu tình yêu thương con người của nhà văn Nguyễn Dữ. Mặc dù, truyện đã cách xa chúng ta hàng thế kỉ nhưng những thông điệp, ý nghĩa, giá trị của truyện và hình tượng Vũ Nương mãi mãi còn vang vọng đến ngày hôm nay và mãi mãi mai sau.

3. Phân tích giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 2

Nguyễn Dữ là nhà văn lỗi lạc của đất nước ta trong thế kỷ XVI, vốn là học trò giỏi của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngoài thơ, ông còn để lại tập văn xuôi viết bằng chữ Hán, gồm có 20 truyện ghi chép những mẩu chuyện hoang đường lưu truyền trong dân gian; cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Đằng sau mỗi câu chuyện thần kỳ, “Truyền kì mạn lục” chứa đựng nội dung phê phán những hiện thực xã hội đương thời được nhìn dưới con mắt nhân đạo của tác giả.

“Chuyện người con gái Nam Xương” trích trong “Truyền kì mạn lục” ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương thuộc tỉnh Nam Hà ngày nay.

Vũ Nương là một người đàn bà nhan sắc và đức hạnh “có tư dung tốt đẹp”, tính tình “thùy mị nết na”. Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về, sum họp gia thất. Thời buổi chiến tranh loạn lạc, chồng phải đi lính đánh giặc Chiêm, Vũ Nương ở nhà lo bề gia thất. Phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con trẻ, đạo dâu con, nghĩa vợ chồng, tình mẹ con, nàng giữ trọn vẹn, chu tất. Khi mẹ chồng già yếu qua đời, một mình nàng lo việc tang ma, phận dâu con giữ trọn đạo hiếu. Có thể nói Vũ Nương là một người đàn bà có phẩm chất tốt đẹp, đáng được trân trọng, ngợi ca. Ước mơ của nàng rất bình dị. Tiễn chồng ra trận, nàng không hề mơ tưởng “đeo ấn phong hầu”, chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về “được hai chữ bình yên”.

Cũng như số đông người phụ nữ ngày xưa, cuộc đời của Vũ Nương là những trang buồn đầy nước mắt. Năm tháng trôi qua, giặc tan, Trương Sinh trở về, con thơ vừa học nói. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng rồi chuyện “cái bóng” từ miệng đứa con thơ đã làm cho Trương Sinh ngờ vực, “đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. Vốn tính hay ghen, lại gia trưởng, vũ phu, ít được học hành, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Vợ phân trần, không tin; hàng xóm khuyên can cũng chẳng ăn thua gì cả! Chính chồng và con – những người thân yêu nhất của Vũ Nương đã xô đẩy nàng đến bên bờ vực thẳm. Thời chiến tranh loạn lạc, nàng đã trải qua những năm tháng cô đơn, giờ đây đứng trước nỗi oan, nàng chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng… Vũ Nương chỉ có một con đường để bảo toàn danh tiết: Nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để làm sáng ngời “ngọc Mị Nương”, toả hương “cỏ Ngu mĩ”.

Vũ Nương tuy không phải “làm mồi cho tôm cá, được các nàng tiên trong thủy cung của Linh Phi cứu thoát”. Thế nhưng, hạnh phúc của nàng ở trần thế bị tan vỡ, “trâm gãy bình rơi”. Nàng tuy được hầu hạ Linh Phi, nhưng quyền làm mẹ, làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn nữa. Đó là nỗi đau đớn lớn nhất của một người phụ nữ. Gần ngàn năm đã trôi qua, miếu vợ chàng Trương vẫn còn đó, đêm ngày “nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương” (Lê Thánh Tông), nhưng lời nguyền về cái chết của Vũ Nương vẫn còn để lại nhiều ám ảnh, nỗi xót thương trong lòng người. Nguyễn Dữ đã ghi lại câu chuyện cảm động thương tâm này với tất cả tấm lòng nhân đạo. Cái chết đau thương của Vũ Nương còn có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Nó lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho lứa đôi phải ly biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn; lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó mà Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân bản sâu sắc.

Phần hai của truyện đầy ắp những tình tiết hoang đường: Phan Lang nằm mộng rồi có người đem biếu con rùa xanh; Phan Lang chạy giặc, bị chết đuối, được Linh Phi cứu sống đặng trả ơn; Phan Lang gặp người làng là Vũ Nương trong bữa tiệc nơi cung nước; Vũ Nương gởi đôi hoa vàng về cho chồng. Trương Sinh lập đàn trên bến Hoàng Giang, đợi gặp vợ, nhưng chỉ thấy bóng Vũ Nương với năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện v. v…

Chi tiết Trương Sinh gọi vợ, rồi chỉ nghe tiếng nói ở giữa sông vọng vào: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” – đó là một chi tiết, một câu nói vô cùng xót xa, đau đớn. Hạnh phúc bị tan vỡ khó mà hàn gắn được vì hai cõi âm – dương là một khoảng trống vắng mênh mông, mù mịt. Trương Sinh ân hận vì mình nông nổi, vũ phu mà vợ chết oan, bé Đản mãi mãi mồ côi mẹ… Qua đó, ta thấy đằng sau cái vỏ hoang đường, câu chuyện về cái chết của Vũ Nương thấm đẫm tình cảm nhân đạo.

Nguyễn Dữ là một trong những cây bút mở đầu nền văn xuôi dân tộc viết bằng chữ Hán. Ông đã đi tiếp con đường của thầy mình: Treo ấn từ quan, lui về quê nhà “đóng cửa, viết sách”. Ông là nhà văn giàu tình thương yêu con người, trân trọng nền văn hóa dân tộc.

Truyền kì mạn lục là kiệt tác của nền văn học cổ Việt Nam, xứng đáng là “thiên cổ kỳ bút”. Người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Chuyện người con gái Nam Xương tố cáo hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam trong thế kỷ XVI, nêu bật thân phận và hạnh phúc người phụ nữ trong bi kịch gia đình.

Gần năm trăm năm sau, “Chuyện người con gái Nam Xương” mà nỗi xót thương đối với số phận bi thảm của người vợ, người mẹ như được nhân lên nhiều lần khi ta đọc bài thơ “Lại bài viếng Vũ Thị” của vua Lê Thánh Tông:

Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng

4. Phân tích giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 3

“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những số tác phẩm hay viết về số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. Qua tác phẩm này, Nguyễn Dữ đã thể hiện được những giá trị nhân đạo sâu sắc.

Trước hết, nhà văn đã ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh nhân vật Vũ Nương. Nàng mang đầy đủ những nét đẹp truyền thống của một người phụ nữ Việt Nam: công, dung, ngôn, hạnh. Mặc dù xuất thân trong một gia đình bình thường “thiếp vốn con nhà khó” nhưng lại xinh đẹp, thùy mị nết na. Đối với chồng hết mực yêu thương, dịu dàng và biết giữ gìn khuôn phép. Đối với mẹ chồng thì hiếu thảo, chăm lo như chính mẹ đẻ của mình. Đối với con luôn chăm sóc ân cần, lo lắng con thiếu thốn tình cảm mà hết lòng bù đắp. Nàng đã sống trọn tình khi làm tròn bổn phận người vợ, người con dâu và người mẹ. Đặc biệt, môt biểu hiện của giá trị nhân văn khi thông qua Vũ Nương nhà văn muốn gửi gắm tiếng nói đồng cảm về khát vọng tình yêu, hôn nhân của người phụ nữ. Vũ Nương luôn hết mực vun vén cho hạnh phúc gia đình. Biết chồng hay ghen, nàng cố gắng giữ gìn khuôn thước để gia đình luôn hòa thuận. Ngày chồng phải lên đường ra nơi trận mạc, Vũ Nương không mong muốn chồng có thể lập được chiến công hiển hách để “mang ấn phong hầu về”. Vì nàng hiểu Trương Sinh bước ra nơi trận mạc là đang đối đầu với cái chết. Nàng chỉ mong chồng có thể bình an trở về, tức chỉ mong có niềm hạnh phúc gia đình sum họp. Ngay cả khi bị chồng hiểu lầm, Vũ Nương vẫn tìm cách hết lời biện bạch với mong muốn giữ gìn hạnh phúc gia đình. Chỉ đến khi lời giải thích đều vô nghĩa, nàng mới tìm đến cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của mình.

Càng trân trọng vẻ đẹp của nàng Vũ Nương bao nhiêu, Nguyễn Dữ lại càng xót xa cho số phận bất hạnh của nàng bấy nhiêu. Nhà văn đau đớn cho cuộc đời của một con người có đầy đủ những phẩm chất đáng quý, tận tụy vun đắp cho hạnh phúc gia đình nhưng lại chẳng được hưởng hạnh phúc lâu dài. Lấy chồng chẳng được bao lâu vì chiến tranh mà phải xa chồng. Trong suốt những năm tháng chồng đi chinh chiến, nàng ở nhà chờ đợi đằng đẵng nhưng đến khi trở về chưa được hưởng niềm hạnh phúc gia đình đoàn tụ đã chịu cảnh oan khuất. Nàng hết mực van xin chàng nói rõ mọi nguyên cớ để cởi tháo mọi nghi ngờ; hàng xóm rõ nỗi oan của nàng nên kêu xin giúp, tất cả đều vô ích. Đến cả lời than khóc xót xa tột cùng: “Nay đã bình rơi trâm gãy, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, cái én lìa đàn,…” cũng không khiến người chống động lòng. Một người với tấm lòng thủy chung, trong trắng đã bị vùi dập thật tàn nhẫn, phũ phàng.

Nhưng bằng tấm lòng nhân đạo cao cả của mình, tác giả không để cho con người ấy phải chết oan. Điều đó thể hiện ở đoạn kết của câu chuyện. Nhờ có yếu tố kì ảo của thể loại truyền kì, nhà văn Nguyễn Dữ đã để cho nhân vật của mình không chết đi. Vũ Nương đã được chư tiên dưới thủy cung thương tình cứu sống. Nàng sống dưới thủy cung, tình cờ gặp gỡ Phan Lang – một người sống cùng làng và kể lại cho Phan nghe toàn bộ câu chuyện. Phan Lang được lời gửi gắm của Vũ Nương sau khi trở về đến gặp Trương Sinh để giải oan cho Vũ Nương. Sau đó, Trương Sinh lập đàn giải oan cho vợ. Vũ Nương hiện về nhưng không thể sống với chồng và con: “thiếp chẳng thể về với nhân gian được nữa”. Cái kết này cũng chưa hoàn toàn có hậu, bởi hạnh phúc cũng chỉ là ước mơ, Vũ Nương vẫn không thể đoàn tụ với gia đình của nàng.
Qua cuộc đời của nàng Vũ Nương, nhà văn cũng đã tố cáo được những thế lực tàn ác đã chà đạp lên khát vọng của con người. Đó chính là xã hội phong kiến với những định kiến trong suy nghĩ: “Trọng nam khinh nữ”, “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “Xuất giá tòng phu” đã gây ra biết bao bi kịch cho cuộc đời của người phụ nữ. Hiện thân của điều đó chính là hình ảnh Trương Sinh (tính tình đa nghi, phòng ngừa vợ quá mức). Cùng với đó, Nguyễn Dữ cũng phê phán xã hội đồng tiền khi con người đến với nhau không phải bằng tình yêu mà có thể dùng tiền bạc để mua được hôn nhân (Trương Sinh xin mẹ mang trăm lạng vàng đến hỏi cưới Vũ Nương). Mượn tích truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” nhưng nhà văn của chúng ta đã sáng tạo ra một câu chuyện mang được hơi thở của thời đại.

Quả thật, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã mang đến những giá trị nhân đạo cao cả. Khi đọc tác phẩm này, mỗi người đọc thêm đồng cảm cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa giống như lời thơ của Nguyễn Du từng viết:

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

5. Phân tích giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 4

“Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc tác phẩm “Truyền kì mạn lục” (ghi chép tản mạn những điều kỳ lạ vẫn được lưu truyền), được viết ở thế kỉ XVI. Tác phẩm này có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian “Vợ chàng Trương”. Nhưng sự khác biệt của tác phẩm này là nhà văn đã gửi gắm trong đó những tư tưởng nhân đạo cao đẹp.

Tinh thần nhân đạo mà Nguyễn Dữ muốn gửi gắm qua “Chuyện người con gái Nam Xương” là ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp cũng như bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Điều đó được thể hiện qua hình ảnh nhân vật chính của câu chuyện – Vũ Nương.

Vũ Nương là một cô gái xuất thân trong gia đình nghèo khó. Vốn “người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp” nên được Trương Sinh – một chàng trai trong làng đem lòng yêu mến. Trương Sinh đã xin mẹ đem trăm lạng vàng đến hỏi cưới. Cuộc hôn nhân của hai người không xuất phát từ tình yêu mà theo đúng quy luật của xã hội phong kiến “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Nhưng nàng Vũ Nương cũng giống như bao người phụ nữ khác, đều khát khao có được hạnh phúc. Chính vì vậy, nàng vẫn luôn biết cách vun vén để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Vũ Nương không mong muốn chồng trở về với vinh hoa phú quý hay công danh sự nghiệp, mà nàng chỉ mong muốn bình yên. Một ước mong giản dị nhưng lại thể hiện được tình yêu thương sâu sắc dành cho chồng. Bởi bước ra nơi chiến trường là đối đầu với hiểm nguy, chết chóc. Nên hy vọng chồng có thể trở về bình yên chính là điều thiết thực nhất. Không chỉ vậy Vũ Nương cũng là một người con dâu hiếu thảo. Năm tháng không có chồng ở nhà, dù phải một mình nuôi con, chăm sóc mẹ chồng nhưng Vũ Nương chẳng mảy may oán thán lấy một lời. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con, nàng vẫn hết lời khuyên bảo. Đến khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Đứa con thơ còn nhỏ, nàng thương con và mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Vũ Nương đã phải nói dối con, chỉ vào chiếc bóng và bảo rằng đó là cha Đản. Chính vì một lời nói dối vô hại ấy, sau này lại đem đến lại bi kịch cho cuộc đời nàng. Qua phân tích trên, có thể thấy, nhà văn đã hết lời ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội xưa với. Ở Vũ Nương hội tụ đầy đủ những phẩm chất: công, dung, ngôn, hạnh.

Nếu như trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ bao nhiêu thì càng xót xa cho số phận của họ. Trong xã hội phong kiến, họ chỉ là những người phụ thuộc, không thể tự quyết định cuộc đời của bản thân: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Ở nhà theo cha; Lấy chồng theo chồng; Chồng chết theo con). Ở đây, bi kịch cuộc đời Vũ Nương xảy ra khi Trương Sinh đi lính trở về, gia đình đoàn tụ. Tưởng rằng giờ đây cuộc sống sẽ được hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh. Nghe tin mẹ mất, hết sức đau lòng, Trương Sinh liền bế con ra mộ thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói ngây thơ của con trẻ đã khiến chàng nghi ngờ vợ là thất tiết. Khi trở về nhà, Trương Sinh liền mắng vợ một bữa cho hả giận. Dù Vũ Nương hết sức tủi thân nhưng nàng vẫn hết lời giải thích cho chồng hiểu. Họ hàng, làng xóm bênh vực cũng không ăn thua. Biết là có giải thích cũng vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Xót xa thay cho người phụ nữ mang danh là thất tiết, chẳng thể minh oan cho sự trong sạch của bản thân, bị chồng ruồng bỏ và phải tìm đến cái chết để hết tội.

Nhưng giá trị nhân đạo không chỉ dừng lại ở niềm sự ca ngợi hay niềm cảm thông. Nó còn thể hiện qua khát vọng về một cuộc sống hạnh phúc cho người phụ nữ. Cũng như tiếng nói tố cáo những thế lực đã chà đạp lên cuộc đời người phụ nữ.

Tính nhân văn còn nằm ở kết thúc có hậu mà nhà văn đã xây dựng. Vũ Nương nhảy xuống sông, nhưng được chư tiên trong thủy cung thương mà cứu thoát, sống tại nơi thủy cung và gặp gỡ với Phan Lang – một người vốn sống cùng làng. Trước khi Phan Lang trở về, nàng gửi nhờ Phan Lang “một chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Trương Sinh sau khi biết mình đã đổ oan cho vợ, nay lại nghe Phan Lang kể lại câu chuyện dưới thủy cung gặp được Vũ Nương được nàng nhờ vả, liền lập đàn giải oan cho vợ. Vũ Nương hiện về trong làn khói mờ ảo, gia đình ba người được gặp nhau. Một kết thúc không có thật ngoài cuộc sống.
Cuối cùng là lời phê phán chính xã hội phong kiến với những định kiến trong suy nghĩ: “Trọng nam khinh nữ”, “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “Xuất giá tòng phu” đã gây ra biết bao bi kịch cho cuộc đời của người phụ nữ. Hiện thân của điều đó chính là hình ảnh Trương Sinh (tính tình đa nghi, phòng ngừa vợ quá mức). Cùng với đó, Nguyễn Dữ cũng phê phán xã hội đồng tiền khi con người đến với nhau không phải bằng tình yêu mà có thể dùng tiền bạc để mua được hôn nhân (Trương Sinh xin mẹ mang trăm lạng vàng đến hỏi cưới Vũ Nương). “Chuyện người con gái Nam Xương” đã được thổi hồn thời đại để nhằm gửi gắm tư tưởng của nhà văn. Đó chính là một trong những điểm sáng tạo của nhà văn.

Như vậy, qua “Chuyện người con gái Nam Xương”, nhà văn Nguyễn Dữ đã gửi gắm đến người đọc những giá trị nhân văn sâu sắc. Quả thật, đây là một trong những tác phẩm hay viết về người phụ nữ trong xã hội xưa.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của Trường Tiểu học Thủ Lệ.

Đăng bởi: Trường Tiểu học Thủ Lệ

Chuyên mục: Giáo dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button