Tổng hợp

Nguyễn Trãi với tập thơ Ức Trai thi tập – Tập thơ chữ Hán đặc sắc

Bạn đang xem: Nguyễn Trãi với tập thơ Ức Trai thi tập – Tập thơ chữ Hán đặc sắc

Tập thơ Ức trai thi tập là một trong những tập thơ chữ Hán đặc sắc của nhà thơ, nhà văn Nguyễn Trãi. Tập thơ gồm 105 bài thơ, trong đó có 17 bài tồn nghi. Đa số các bài thơ trong tập thơ Ức trai thi tập đều thuộc thể thơ thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn chỉ có 2 bài theo thể trường thiên là “Côn Sơn ca” và “Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên”. Hãy cùng Trường Tiểu học Thủ Lệ theo dõi bài viết này ngay bây giờ nhé các bạn!

題盧氏家譜
積慶原來自有基,
畜宏發鉅可先知。
詩書浚澤芳逾遠,
忠孝傳家訓永貽。
水木必從原本始,
黃金何用子孫遺。
焚香一讀公家譜,
肅肅令人起敬思。

Đề Lư thị gia phả
Tích khánh nguyên lai tự hữu ky (cơ),
Súc hoành phát cự khả tiên tri.
Thi thư tuấn trạch phương du viễn,
Trung hiếu truyền gia huấn vĩnh di.
Thuỷ mộc tất tòng nguyên bản thỉ,
Hoàng kim hà dụng tử tôn di.
Phần hương nhất độc công gia phổ,
Túc túc linh nhân khởi kính ti (tư).

Dịch nghĩa
Giữ được phước trước nay vẫn có nguồn gốc, nguyên do
Phước dày lớn phát ra có thể đoán trước được
Nền thì thư thấm nhuần, hương thơm vượt xa
Sự trung hiếu gia truyền còn lại mãi mãi
Nước và cây hẳn phải từ cội nguồn đầu tiên
Bạc vàng lưu lại cho con cháu để làm gì?
Khi đốt hương đọc gia phổ của ngài
Khiến lòng cung kính của con người (tôi) khởi dậy.

藍關懷古
行盡千山與萬山,
蒴風吹起滿藍關。
君王曾此思忠諫,
瘴海遙觀匹馬還。

Lam Quan hoài cổ
Hành tận thiên sơn dữ vạn sơn,
Sóc phong suy khởi mãn Lam Quan.
Quân vương tằng thử tư trung gián,
Chướng hải dao quan thất mã hoàn.

Dịch nghĩa
Đi mãi tận nghìn non vạn núi
Ngọn núi bắc nổi lên khắp ải Lam Quan
Vì vua thời ấy chẳng nghe lời can gián của kẻ trung
Từng có cảnh con ngựa không người cưỡi trở về từ quan ải xa và vùng biển độc địa.

贈孔顏孟三氏子孫教授太平
人生十慮九常乖,
盛世誰知有棄才。
坡老昔曾儋耳去,
長庚亦向夜郎來。
文章自古多為累,
詩酒從今且放懷。
會待金雞開赦日,
五雲深處睹蓬萊。

Tặng Khổng, Nhan, Mạnh tam thị tử tôn giáo thụ Thái Bình
Nhân sinh thập lự cửu thường quai,
Thịnh thế thuỳ tri hữu khí tài.
Pha lão tích tằng Đam Nhĩ khứ,
Trường Canh diệc hướng Dạ Lang lai.
Văn chương tự cổ đa vi luỵ,
Thi tửu tòng kim thả phóng hoài.
Hội đãi kim kê khai xá nhật,
Ngũ vân thâm xứ đổ Bồng Lai.

Dịch nghĩa
Sinh ra ở đời, tính mười điều thường sai đến chín
Buổi thịnh ai biết được chuyện bỏ sót (quên) kẻ tài năng
Pha lão xưa từng đi đày tại Đam Nhĩ
Trường Canh cũng đã phải đến vùng Dạ Lang
Từ xưa văn chương vốn gây nhiều hệ luỵ
Nay ta lại càng trở lại với thơ rượu
Chờ mong ngày mở hội đại xá kim kê
Tại xứ ngũ vân xa thẳm thấy cảnh Bồng Lai

Khổng Tử, Nhan Uyên và Mạnh Tử, ba bậc thánh hiền của đạo Nho Trung Quốc.

贈孔顏孟三氏子孫教授太平
人生十慮九常乖,
盛世誰知有棄才。
坡老昔曾儋耳去,
長庚亦向夜郎來。
文章自古多為累,
詩酒從今且放懷。
會待金雞開赦日,
五雲深處睹蓬萊。

Tặng Khổng, Nhan, Mạnh tam thị tử tôn giáo thụ Thái Bình
Nhân sinh thập lự cửu thường quai,
Thịnh thế thuỳ tri hữu khí tài.
Pha lão tích tằng Đam Nhĩ khứ,
Trường Canh diệc hướng Dạ Lang lai.
Văn chương tự cổ đa vi luỵ,
Thi tửu tòng kim thả phóng hoài.
Hội đãi kim kê khai xá nhật,
Ngũ vân thâm xứ đổ Bồng Lai.

Dịch nghĩa
Sinh ra ở đời, tính mười điều thường sai đến chín
Buổi thịnh ai biết được chuyện bỏ sót (quên) kẻ tài năng
Pha lão xưa từng đi đày tại Đam Nhĩ
Trường Canh cũng đã phải đến vùng Dạ Lang
Từ xưa văn chương vốn gây nhiều hệ luỵ
Nay ta lại càng trở lại với thơ rượu
Chờ mong ngày mở hội đại xá kim kê
Tại xứ ngũ vân xa thẳm thấy cảnh Bồng Lai

Khổng Tử, Nhan Uyên và Mạnh Tử, ba bậc thánh hiền của đạo Nho Trung Quốc.

聽雨
寂寞幽齋裏,
終宵聽雨聲。
蕭騷驚客枕,
點滴數殘更。
隔竹敲窗密,
和鐘入夢清。
吟餘渾不寐,
斷續到天明。

Thính vũ
Tịch mịch u trai lý,
Chung tiêu thính vũ thanh.
Tiêu hao kinh khách chẩm!
Điểm trích sổ tàn canh.
Cách trúc xao song mật,
Hoà chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hồn bất mị,
Đoạn tục đáo thiên minh.

Dịch nghĩa
Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách,
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ,
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được,
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.

贈友人
貧病余憐汝,
疏狂汝似余。
同為千里客,
俱讀數行書。
瓠落知何用,
栖遲諒有餘。
他年淽溪約,
短笠苛春鋤。

Tặng hữu nhân
Bần, bệnh dư liên nhữ,
Sơ cuồng, nhữ tự dư.
Ðồng vi thiên lý khách,
Câu độc sổ hàng thư.
Hồ lạc tri hà dụng,
Thê trì lượng hữu dư.
Tha niên Nhị (Nhuỵ) Khê ước,
Ðoản lạp hạ xuân sừ.

Dịch nghĩa
Tôi thương anh nghèo mà có bệnh,
Và anh cũng giống tôi tính ngang tàng.
Cũng là khách ngàn dặm như nhau,
Và cũng đã từng đọc mấy hàng chữ sách.
Hai ta như quả bầu rỗng biết làm được gì đây
Nhưng rong chơi thì lại có thừa
Chúng ta đã hẹn nhau nơi Nhị Khê này,
Cùng đội nón cùng bừa buổi xuân sang.

村舍秋砧
滿江何處響東丁,
夜月偏驚久客情。
一種蕭關征婦怨,
總將離恨入秋聲。

Thôn xá thu châm
Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh,
Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình.
Nhất chủng Tiêu quan chinh phụ oán,
Tổng tương ly hận nhập thu thanh.

Dịch nghĩa
Từ đâu vẳng đến khắp sông tiếng nện thình thình ?
Trong đêm qua làm kinh động lòng khách trú lâu ngày ở đây
(Như) một nỗi ta thán của người chinh phụ có chồng đang ở chốn Tiêu quan
Cả một niềm ly hận như thấm vào tiếng thu.

亂後感作
神州一自起干戈,
萬姓嗷嗷可奈何。
子美孤忠唐日月,
伯仁雙淚晉山河。
年來變故侵人老,
秋越他鄉感客多。
卅載虛名安用處,
回頭萬事付南柯。

Loạn hậu cảm tác
Thần châu nhất tự khởi can qua,
Vạn tính ngao ngao khả nại hà.
Tử Mỹ cô trung Đường nhật nguyệt,
Bá Nhân song lệ Tấn sơn hà.
Niên lai biến cố xâm nhân lão,
Thu việt tha hương cảm khách đa.
Tạp tải hư danh an dụng xứ,
Hồi đầu vạn sự phó Nam Kha.

Dịch nghĩa
Từ khi xẩy ra chiến tranh trên đất tổ (Thần châu)
Muôn dân rên xiết, chẳng biết làm sao được
Tử Mỹ giữ lòng trung một mình với nhà Đường qua ngày tháng
Bá Nhân buồn cho sơn hà nhà Tấn
Mấy năm lại đây biến cố khiến cho người chóng già hơn
Trải qua mùa thu nơi đất khách khá nhiều cảm xúc
Ba chục năm hư danh có dùng được gì?
Quay đầu lại, vạn sự phó cho giấc mộng Nam Kha

寄舅易齋陳公
兵餘親戚半離零,
萬死殘軀偶一生。
往事空成槐國夢,
別懷誰寫渭楊情。
不來自擬同王式,
避亂終當學管寧。
欲問相思愁別處,
孤齋風雨夜三更。

Ký cữu Dịch Trai Trần Công
Binh dư thân thích bán ly linh,
Vạn tử tàn khu ngẫu nhất sinh.
Vãng sự không thành Hoè quốc mộng,
Biệt hoài thuỳ tả Vị dương tình.
Bất lai tự nghĩ đồng Vương Thức,
Tỵ loạn chung đương học Quản Ninh.
Dục vấn tương tư sầu biệt xứ,
Cô trai phong vũ dạ tam canh.

Dịch nghĩa
Sau chiến tranh bà con bị điêu linh hết phân nửa
Cả vạn lần suýt chết, may còn thân này sống sót
Việc xưa cũ thành như giấc mộng xứ Hoè
Xa nhau thương nhớ, ai tả được mối tình Vị Dương?
Không đến được, tưởng cũng giống như Vương Thức
Chung qui, nên bắt chước Quản Ninh đi tị loạn
Muốn tự hỏi lại mối sầu tương tư của mình
Trong lòng cô quạnh, (bên ngoài) mưa gió suốt ba canh.

清明
一從淪洛他鄉去,
屈指清明幾度過。
千里墳塋違拜掃,
十年親舊盡消磨。
乍晴天氣模稜雨,
過半春光廝句花。
聊把一杯還自彊,
莫教日日苦思家。

Thanh minh
Nhất tòng luân lạc tha hương khứ,
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.
Thiên lý phần doanh vi bái tảo,
Thập niên thân cựu tẫn tiêu ma.
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ,
Quá bán xuân quang tê cú hoa.
Liêu bả nhất bôi hoàn tự cuỡng,
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia.

Dịch nghĩa
Từ khi lưu lạc quê người đến nay,
Bấm đốt ngón tay tính ra tiết thanh minh đã mấy lần rồi.
Xa nhà nghìn dặm không săn sóc phần mộ tổ tiên được,
Mười năm qua bà con thân thích đã tiêu tán hết.
Tạnh cơn mưa mây, trời chợt sáng,
Hoa đồ mi đã quá nửa chừng xuân.
Hãy cầm lấy chén rượu mà gượng uống,
Ðừng để ngày ngày phải khổ vì nỗi nhớ nhà.

Tiết thanh minh vào tháng ba âm lịch, dân chúng thường đi tảo mộ. Truyện Kiều: “Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.”

記友
半生世路嘆屯邅,
萬事惟應付老天。
寸舌但存空自信,
一寒如故亦堪憐。
光陰焂忽時難再,
客舍凄涼夜似年。
十載讀書貧到骨,
盤惟苜蓿坐無氈。

Ký hữu (I)
Bình sinh thế lộ thán truân chiên,
Vạn sự duy ưng phó lão thiên.
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín,
Nhất hàn như cố diệc kham liên.
Quang âm thúc hốt thời nan tái,
Khách xá thê lương dạ tự niên.
Thập tải độc thư bần đáo cốt,
Bàn duy mục túc, toạ vô chiên.

Dịch nghĩa
Bình sinh đường đời nhiều vất vả quá thể
Vạn việc chỉ nên phó cho trời già
Tấc lưỡi hãy còn, tưởng cũng tự tin được
Cứ một cảnh nghèo như cũ thật đáng thương
Ngày tháng (sáng tối) đi qua vùn vụt khó mà trở lại
Quán khách lạnh lùng, đêm dài như cả một năm
Mười năm đọc sách (học hành) mà nghèo đến tận xương
Trên mâm cơm chỉ có rau mục túc, chỗ ngồi chẳng có chiếu.

秋夜客感
旅舍蕭蕭席作門,
微吟袖手過黃昏。
秋風落葉羈情思,
夜雨青燈客夢魂。
亂後逢人非夙昔,
愁中送目寓乾坤。
到頭萬事皆虛幻,
休論凡亡與楚存。

Thu dạ khách cảm (I)
Lữ xá tiêu tiêu tịch tác môn,
Vi ngâm tụ thủ quá hoàng hôn.
Thu phong lạc diệp ki tình tứ,
Dạ vũ thanh đăng khách mộng hồn.
Loạn hậu phùng nhân phi túc tích,
Sầu trung tống mục ngụ càn khôn.
Ðáo đầu vạn sự giai hư huyễn,
Hưu luận Phàm vong dữ Sở tồn.

Dịch nghĩa
Quán khách tiêu điều treo chiếu làm cửa
Ủ tay vào áo ngâm nga khẽ giọng trong buổi hoàng hôn
Lá rụng trong gió thu gợi tình tứ
Đêm mưa ánh đèn leo lét khiến khách thả hồn vào mộng
Sau loạn chẳng ai là quen cũ
Trong cảnh sầu gửi tầm hồn vào trời đất
Chung quy muôn việc đều là hư ảo cả
Thôi chớ bàn chuyện Phàm mất với Sở còn làm gì.

夏日漫成
傳家舊業只青氈,
離亂如今命苟全。
浮世百年真似夢,
人生萬事總關天。
一壼白酒消塵慮,
半榻清風足午眠。
惟有故山心未斷,
何時結屋向梅邊。

Hạ nhật mạn thành (I)
Truyền gia cựu nghiệp chỉ thanh chiên,
Ly loạn như kim mệnh cẩu tuyền.
Phù thế bách niên chân tự mộng,
Nhân sinh vạn sự tổng quan thiên.
Nhất hồ bạch tửu tiêu trần lự,
Bán tháp thanh phong túc ngọ miên.
Duy hữu cố sơn tâm vị đoạn,
Hà thì kết ốc hướng mai biên.

Dịch nghĩa
Sản nghiệp cũ nhà truyền lại chỉ có tấm chiên xanh
Ly loạn mà thân này tạm được toàn vẹn
Cuộc đời trăm năm bềnh bồng như giấc mộng
Muôn việc ở đời đều do lòng trời
Một bầu rượu trắng đủ tiêu niềm tục luỵ
Nửa giường gió mát cũng đủ để ngủ trưa
Chí có núi quê là lòng luôn nhớ không dứt
Bao giờ mới được (về) cất nhà bên gốc mai?

和新齋韻
風流郡守文章伯,
喬木能憐我故家。
信美江山詩易就,
無情歲月眼將花。
干戈十載親朋少,
宇宙千年變故多。
客舍香塵春晝永,
騰騰清夢繞煙波。

Hoạ Tân Trai vận
Phong lưu quận thú văn chương bá,
Kiều mộc năng liên ngã cố gia.
Tín mỹ giang sơn thi dị tựu,
Vô tình tuế nguyệt nhãn tương hoa.
Can qua thập tải thân bằng thiểu,
Vũ trụ thiên niên biến cố đa.
Khách xá hương trần xuân trú vĩnh,
Đằng đằng thanh mộng nhiễu yên ba.

Dịch nghĩa
Quận thú là người phong lưu thuộc hạng đàn anh trong văn chương
Cây cổ thụ (cây cao) như ngài khiến tôi nhớ đến nhà (gia đình) tôi
Non sông rõ ràng đẹp khiến nguồn thơ dễ đến
Năm tháng qua vô tình mắt sắp lòa
Sau mươi năm loạn ít bạn bè còn lại
Nghìn năm nhiều biến cố xảy ra trong vũ trụ
Bụi (hồng) thơm có mãi nơi quán khách mùa xuân
Mộng nhẹ cứ lân la quanh chỗ ẩn dật (khói và sóng).

歸昆山舟中作
十年飄轉嘆蓬萍,
歸思搖搖日似旌。
幾托夢魂尋故里,
空將血淚洗先塋。
兵餘斤斧嗟難禁,
客裡江山只此情。
鬱鬱寸懷無奈處,
船窗推枕到天明。

Quy Côn Sơn chu trung tác
Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình,
Quy tứ dao dao nhật tự tinh.
Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý,
Không tương quyết lệ tẩy tiên doanh.
Binh dư cân phủ ta nan cấm,
Khách lý giang sơn chỉ thử tình.
Uất uất thốn hoài vô nại xứ,
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh.

Dịch nghĩa
Mười năm phiêu dạt như cỏ bồng cánh bèo
Ý muốn trở về ngày nào cũng nao nao (như cờ dựng trong trí)
Bao lần gửi hồn trong mộng về làng cũ
Mang bằng tưởng tượng huyết lệ về tẩy mộ tổ tiên
Than ôi, sau loạn lạc làm sao cấm cản được vụ búa rìu?
Trong cảnh khách này chỉ có mối tình ấy với giang sơn
Tấc lòng u uất thật khó xử
Song cửa thuyền lay gối mãi đến sáng trời.

亂後到崑山感作
一別家山恰十年,
歸來松匊半翛然。
林泉有約那堪負,
塵土低頭只自憐。
鄕里纔過如夢到,
干戈未息幸身全。
何時結屋雲峰下,
汲澗烹茶枕石眠。

Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên,
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.
Hương lí tài qua như mộng đáo,
Can qua vị tức hạnh thân tuyền (toàn).
Hà thời kết ốc vân phong hạ,
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên.

Dịch nghĩa
Từ giã quê hương vừa đúng mười năm
Nay trở về, tùng cúc một nửa đã tiêu sơ
Đã hẹn với rừng suối mà sao nỡ phụ
Trong cát bụi cúi đầu tự thương mình
Vừa qua làng, tưởng như chiêm bao
Chiến tranh chưa dứt, may được toàn thân
Bao giờ được làm nhà dưới núi mây
Múc nước suối nấu trà, gối lên đá mà ngủ.

關海
樁木重重海浪前,
沉江鐵鎖亦徒然。
覆舟始信民猶水,
恃險難憑命在天。
禍福有媒非一日,
英雄遺恨幾千年。
乾坤今古無窮意,
卻在滄浪遠樹煙。

Quan hải
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,
Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên.
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ,
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỉ thiên niên.
Kiền khôn kim cổ vô cùng y,
Khước tại Thương Lang viễn thụ yên.

Dịch nghĩa
Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
Xích sắt cũng được trầm dưới nước để phong toả như thế
Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nước
Cậy vào địa thế hiểm trở cũng khó bằng mệnh trời
Họa phúc đều có duyên do, đâu phải chỉ một ngày
Anh hùng để lại mối hận nghìn năm
Xưa nay ý trời đất thì vô cùng tận
Lui về chốn cây cỏ mây trời ở đất Thương Lang xa xôi.

林港夜泊
港口聽潮暫繫舠,
韽韽隔岸響蒲牢。
船窗客夜三更雨,
海曲秋風十丈濤。
膜外虛名身是幻,
夢中浮俗事堪拋。
一生氣習渾如昨,
不為羈愁損舊豪。

Lâm cảng dạ bạc
Cảng khẩu thính triều tạm hệ đao,
Am am cách ngạn hưởng bồ lao.
Thuyền song khách dạ tam canh vũ,
Hải khúc thu phong thập trượng đào.
Mạc ngoại hư danh thân thị huyễn,
Mộng trung phù tục sự kham phao.
Nhất sinh khí tập hồn như tạc,
Bất vị ky sầu tổn cựu hào.

Dịch nghĩa
Đến cửa khẩu nghe thấy triều tạm buộc thuyền con
Văng vẳng bên kia bờ nghe tiếng chuông
Bên cửa thuyền khách mưa rơi suốt ba canh
Trong vịnh biển gió thu thổi dâng sóng lên cao mười trượng
Danh hảo bỏ ra ngoài, thân này cũng là ảo
Đời phù dung tục lụy trong giấc mộng đáng bỏ đi
Một đời vẫn giữ quen cái nết ngày trước
Chẳng phải vì mối sầu xa quê hương mà giảm chí khí cũ.

神符海口
故國歸心落雁邊,
秋風一葉海門船。
鯨噴浪吼雷南北,
槊擁山連玉後前。
天地多情恢巨浸,
勳名此會想當年。
日斜倚棹滄茫立,
冉冉寒江起暮煙。

Thần Phù hải khẩu
Cố quốc quy tâm lạc nhạn biên,
Thu phong nhất diệp hải môn thuyền.
Kình phun lãng hống lôi nam bắc,
Sóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền.
Thiên địa đa tình khôi cự tẩm,
Huân danh thử hội tưởng đương niên.
Nhật tà ỷ trạo thương mang lập,
Nhiễm nhiễm hàn giang khởi mộ yên.

Dịch nghĩa
Theo cánh nhạn hướng lòng về quê cũ
Chiếc thuyền lan ở cửa biển như chiếc lá trong gió thu
Sóng tung như cá kình, sấm dậy ở phía nam cũng như phía bắc
Núi liên tiếp như giáo ngọc dựng trước lẫn sau
Trời đất đã cố tình mở ra vịnh lớn
Công danh gặp hội nhớ lại năm nào
Chiều tà dựa vào cột chèo nhìn cảnh bát ngát
Dòng sông lạnh mênh mông trong khói mù.

海口夜泊有感
一別江湖數十年,
海門今日繫吟船。
波心浩渺滄洲月,
樹影參差浦漵煙。
往事難尋時易過,
國恩未報老堪憐。
平生獨抱先憂念,
坐擁寒衾夜不眠。

Hải khẩu dạ bạc hữu cảm (I)
Nhất biệt giang hồ sổ thập niên,
Hải môn kim nhật hệ ngâm thuyền.
Ba tâm hạo diểu thương châu nguyệt
Thụ ảnh sâm si phố tự yên.
Vãng sự nan tầm thời dị quá.
Quốc ân vị báo lão kham liên.
Bình sinh độc bão tiên ưu niệm,
Toạ ủng hàn khâm dạ bất miên.

Dịch nghĩa
Từ ra đi lưu lạc giang hồ đã mấy mươi năm
Tối nay buộc thuyền thơ nơi cửa biển
Đáy nước mênh mang, trăng chiếu trên bãi lạnh
Hình dáng cây cối lô nhô, khói phủ trên bến
Khó tìm nhớ lại việc xưa, thời gian trôi quá dễ
Tự thương xót mình đã già mà ơn nước chưa đền
Bình sinh một mình ôm cái chí lo truớc hưởng sau
Ngồi cuốn chăn lạnh thức suốt đêm.

龍岱岩
去年虎穴我曾窺,
龍岱今觀石窟奇。
鰲負出山山有洞,
鯨遊塞海海為池。
壼中日月天難志,
世上英雄此一時。
黎范風流嗟漸遠,
青苔半蝕璧間詩。

Long Đại nham
Khứ niên hổ huyệt ngã tằng khuy,
Long Đại kim quan thạch quật kỳ.
Ngao phụ xuất sơn, sơn hữu động,
Kình du tắc hải, hải vi trì.
Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão,
Thế thượng anh hùng thử nhất thì.
Lê Phạm phong lưu ta tiệm viễn,
Thanh đài bán thực bích gian thi.

Dịch nghĩa
Năm trước ta đã từng xem hang cọp
Nay lại đến xem động Long Đại, một động núi lạ
Con ngao đội núi lên thành động
Cá kình bơi lấp biển thành ao
Trong bầu nhật nguyệt trời khó già
Anh hùng trên đời thì chỉ là một thuở
Nếp sống phong lưu của hai họ Lê và Phạm than ôi cũng xa dần
Thơ trên vách đá cũng đã bị rêu xanh gấm nhậm rồi.

Hi vọng với phần thơ của tập thơ Ức trai thi tập Nguyễn Trãi sẽ mang đến cho độc giả yêu thơ những phút giây thư giãn thoải mái nhất. Phần thơ gắn liền với một phần cuộc đời của nhà thơ Nguyễn Trãi. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem tiếp: Nguyễn Trãi với tập thơ Ức Trai thi tập – Tập thơ chữ Hán đặc sắc P1

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button