Giáo DụcLớp 11

Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài Thương vợ

Trường Tiểu học Thủ Lệ xin giới thiệu đến các em bài văn mẫu Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài Thương vợ dưới đây nhằm giúp các em học sinh rèn luyện và nâng cao kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học hay và đặc sắc nhất. Mời các em cùng tham khảo nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Thương vợ.

Bạn đang xem: Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài Thương vợ

2. Dàn bài chi tiết

a. Mở bài:

– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:

+ Trần Tế Xương – một ánh sao lạ vụt sáng trên bầu trời văn chương nước Việt với những bài thơ mang tư tưởng li tâm Nho giáo.

+ Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu của Trần Tế Xương.

– Khái quát hình ảnh ông Tú: không chỉ thể hiện thành công hình tượng trung tâm là bà Tú mà bài thơ cũng đặc biệt thành công hình ảnh ông Tú với những phẩm chất đáng quý.

b. Thân bài:

* Ông Tú là người có tấm lòng thương vợ sâu sắc

– Ông Tú cảm thương cho sự vất vả, lam lũ của bà Tú

– Ông thương bà Tú vì phải mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”:

+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào

+ Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.

=> Ông Tú thương hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định, bà không những phải nuôi con mà phải nuôi chồng.

– Ông thương vợ phải lặn lội bươn chải khi làm việc:

+ “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn

+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu.

+ “Eo sèo… buổi đò đông”: cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc

-> Tấm lòng thương xót da diết của ông Tú trước thực cảnh mưu sinh của bà Tú

– Ông phát hiện và trân trọng, ngợi ca những đức tính tốt đẹp của vợ

+ Ông cảm phục bởi tuy vất vả nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con: “Nuôi”: chăm sóc hoàn toàn “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu

+ Ông Tú trân trọng sự chăm chỉ, tần tảo đảm đang của vợ:

  • “Một duyên hai nợ âu đành phận”: chấp nhận, không than vãn
  • “Dám quản công”: đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.

=> Trần Tế Xương đã trân trọng đề cao phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

* Ông ý thức được bản thân là gánh nặng của vợ và căm phẫn trước xã hội đẩy người phụ nữ vào bất công

– Người đàn ông trong xã hội phong kiến đáng lẽ ra phải có sự nghiệp hiển hách để lo cho vợ con, nhưng ở đây, ông Tú ý thức được bản thân là gánh nặng của vợ.

+ “Nuôi đủ năm con với một chồng” : Tú Xương ý thức được hoàn cảnh của mình, nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và mình, coi mình là một đứa con đặc biệt.

+ “Một duyên hai nợ”: Tú Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu

+ “Có chồng hờ hững cũng như không”: Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thói đời

– Từ tấm lòng thương vợ, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc đẩy người phụ nữ vào bất công

+ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”: tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả

=> Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi, ông căm phẫn xã hội đẩy người phụ nữ vào ngang trái bất công.

c. Kết bài:

– Khẳng định lại những nét nghệ thuật tiêu biểu góp phần thể hiện thành công hình ảnh ông Tú

– Trình bày suy nghĩ bản thân.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Em hãy viết bài văn phân tích hình ảnh ông Tú trong bài thơ Thương vợ.

GỢI Ý LÀM BÀI

3.1. Bài văn mẫu số 1

Trong thơ Tú Xương có cả một mảng đề tài riêng viết về người vợ – bà Tú. Ở các bài thơ này, bà Tú bao giờ cũng xuất hiện trước và khuất lấp phía sau là hình ảnh ông Tú. Dù chỉ là nét vẽ thoảng qua nhưng khi đã nhận ra hình dáng ông trong đó người đọc sẽ vô cùng ấn tượng, nhớ mãi về một người đàn ông yêu thương và trân trọng vợ mình. Trong bài thơ Thương vợ, hình ảnh ông Tú cũng thấp thoáng hiện lên nhưng để lại biết bao ấn tượng với người đọc.

Bài thơ nổi bật lên là chân dung bà Tú lam lũ, tần tảo “quanh năm buôn bán ở mom sông” nuôi sống gia đình. Nhưng đằng sau bức tranh chủ đạo ấy ta còn thấy một bức tranh khác cũng không kém phần đặc sắc chính là hình ảnh ông Tú với lòng yêu thương, quý trọng và tri ân vợ. Không chỉ vậy, ông còn là người có nhân cách cao đẹp.

Trước hết, Tú Xương là người có tình yêu thương vợ sâu sắc:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Ông tuy không buôn bán cùng vợ nhưng ánh mắt trái tim ông thì vẫn một lòng hướng theo bà, để quan sát, để yêu thương bà Tú hơn khi cảm thấy hết những vất vả, cực nhọc mà bà Tú phải trải qua. Đặc biệt tự trân quý, yêu thương đó được thể hiện rõ nhất trong câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, đây là lời ông kể công, tính công cho vợ. Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Chồng cũng là một thứ con còn dại, phải nuôi. Đếm con, năm con chứ ai lại đếm chồng, một chồng – tại vì phải nuôi như con cho nên mới liệt ngang hàng mà đếm để nuôi cho đủ”. Đặc biệt chữ “đủ” gợi cho ta nhiều ý nghĩa, nhiều cách hiểu, đủ – đủ thành phần trong gia đình: cả cha và con; đủ – đủ mọi thứ ăn uống, vui chơi: “Cơm hai bữa cá kho rau muống/ Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”. Đồng thời ông Tú cũng tự tách riêng mình với năm đứa con để cảm nhận hết tình yêu thương của vợ và dành lời tri ân sâu sắc dành cho bà Tú. Có lẽ phải là một người yêu thương, trân trọng vợ hết lòng ông mới có thể hạ cái tôi cao quý của mình để nói lời tri ân, cảm ơn sâu sắc đối với vợ đến như vậy.

Tú Xương tuy chỉ xuất hiện gián tiếp ẩn sau hình ảnh bà Tú, nhà thơ không chỉ cảm phục, cảm thương và tri ân vợ mà còn mượn lời bà Tú lên án thói đời bạc bẽo “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”, chính quan niệm lễ giáo phong kiến khắt khe về “Tam tòng tứ đức”, “Xuất giá tòng phu” là nguyên nhân sâu xa khiến cho bà Tú cùng với biết bao người phụ nữ xưa phải khổ cực, chịu nhiều cay đắng. Ông cũng tự trách, tự chửi bản thân mình “hờ hững cũng như không”, tự trách mình là kẻ ăn bám “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm mà ông coi mình là món nợ đời “một duyên hai nợ” mà bà Tú phải gánh vác, duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Ông tự trào bằng lối viết hóm hỉnh, độc đáo vừa là để ngợi ca công lao vợ vừa là chê trách, nhận khuyết điểm về bản thân mình. Một con người dũng cảm dám nhận ra sự thiếu sót, thiếu trách nhiệm của một người chồng đối với vợ “thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”, của người cha đối với con và trách nhiệm của người đàn ông đối với gia đình. Ông biết nhận lỗi, biết đền bù lại bằng những câu thơ tha thiết yêu thương chân thành khiến cho người đời chẳng hề trách móc mà cảm thông cho Tú Xương.

Ông không phải là một kẻ bất tài vô lương nhưng sống trong một xã hội chế độ phong kiến thối nát không biết trọng dụng nhân tài, giá trị của đồng tiền, danh vọng vùi lấp tài năng con người khiến cho Tú Xương lận đận khoa cử tám lần lều chõng đi thi trong suốt quãng đời ngắn ngủi 37 năm gói gọn trong ba việc đi học, đi thi và làm thơ.

Hình ảnh bà Tú trăm cơ nghìn cực cùng với tấm lòng yêu thương dành cho vợ đã trở thành nguồn cảm hứng trữ tình phong phú và hấp dẫn trong thơ ông. Bằng tài năng thi ca với sự cách tân mới mẻ trong ngôn ngữ, thi liệu và đề tài. Bài thơ “Thương vợ” đã thể hiện được ân tình sâu đậm và chân thành của nhà thơ đối với bậc hiền phụ đồng thời cho thấy tâm hồn nhân cách cao đẹp của Tú Xương luôn cởi mở, nhân hậu với những người thân yêu của mình với tài năng của một thi sĩ biết vận dụng sáng tạo lời ăn tiếng nói của dân gian kết hợp với ngôn ngữ bác học làm nên một bài thơ hay và sâu sắc.

3.2. Bài văn mẫu số 2

Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam Tú Xương là nhà thơ viết về vợ nhiều nhất. “Thương vợ” là bài thơ thành công nhất trong mảng đề tài này của ông. Bài thơ đã khắc họa chân thực hình ảnh bà Tú một người vợ, người mẹ, người phụ nữ đảm đang, tháo vát, chịu thương chịu khó và giàu lòng hi sinh dành cho chồng con. Nhưng ẩn đằng sau đó là hình ảnh ông Tú mang trong mình nét đẹp nhân cách và tâm hồn. Một người chồng thương yêu, cảm thông và tri ân sâu sắc với vợ dám cất lên tiếng chửi đời, chửi mình và nhận khuyết điểm bản thân.

Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà trí thức phong kiến thuộc loại nhà Nho “Dài lưng tốn vải” phải sống nương tựa nhờ vào người vợ của mình. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu.

Trong sáu câu thơ đầu hiện lên là chân dung và nét đẹp phẩm chất của bà Tú. Công việc vất vả, gian truân “Quanh năm” buôn bán ở trên mảnh đất cheo leo, bốn bề bao quanh là nước đầy rẫy những hiểm nguy chốn “mom sông” để kiếm ăn “Nuôi đủ năm con với một chồng” gánh nặng gia đình đặt lên đôi vai người phụ nữ chân yếu tay mềm mà tấm lòng son sắt, kiên cường, bền bỉ. Chỉ một từ “đủ” đã nói lên được chất lượng và số lượng, đủ cơm ăn áo mặc cho cả một gia đình năm con, một chồng không phải là điều dễ dàng. Tú Xương phải là một người chồng thương vợ hết mực mới có thể dõi theo từng bước chân đi của vợ, quan sát được từng nét biểu cảm trên gương mặt bà Tú khi “lặn lội thân cò”, khi “eo sèo mặt nước buổi đò đông” Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò và ý thơ trong ca dao “con cò lặn lội bờ sông” mà đặc tả sự vất vả của bà Tú. 

Không chỉ vậy, Tú Xương còn là con người có nhân cách, điều đó được thể hiện rõ nhất qua lời tự trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Bà Tú lấy ông là cái duyên, nhưng đồng thời cũng là cái nợ, là gánh nặng. Duyên đến với nhau thì ít mà nợ với nhau thì nhiều. Ông Tú tự nhận mình chính là cái nợ mà bà Tú cả đời này phải đèo bòng, bà có trách nhiệm phải trang trải. Mặc dù gánh trên mình trách nhiệm nặng nề nhưng người vợ không hề ca thán, kể công, như một lẽ thường tình của người phụ nữ Việt Nam, bà sẵn sàng hi sinh tất cả cho chồng con.

Câu nói “âu đành phận”, “dám quản công” như một lời Tú Xương nói hộ nỗi lòng vợ, đồng thời cũng là lời kể công thay cho vợ. Câu thơ như tiếng thở dài não nề của người chồng thương vợ và có nhân cách.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

Tiếng chửi thói đời những tưởng là tiếng nói phẫn uất của bà Tú, nhưng thực chất đó là lời tác giả tự trách chính mình, tự phê phán chính mình, đó là cách thể hiện tình cảm rất đặc biệt Tú Xương dành cho vợ. Thói đời ở đây có thể hiểu là những quy tắc nghiêm ngặt, cổ hủ của chế độ phong kiến đã đẩy người vợ vào công cuộc mưu sinh với bao khó khăn, vất vả thậm chí cả nguy hiểm. Đó còn là thói vô cảm của người đàn ông, không quan tâm, không sẻ chia những nhọc nhằn trong cuộc sống với vợ. Tiếng chửi là lời nói phẫn uất, nhưng cũng chất chứa biết bao yêu thương, trân trọng, lòng biết ơn Tú Xương dành cho vợ.

Bằng ngôn ngữ giản dị, tình cảm chân thành sâu sắc Tú Xương đã góp một cảm xúc mới mẻ vào văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ thấy sự tảo tần, hi sinh của bà Tú, mà còn thấy được tình yêu thương, sự tri ân mà tác giả dành cho vợ. Qua đó còn làm sáng lên nhân cách cao đẹp của Tú Xương.

Đăng bởi: Trường Tiểu học Thủ Lệ

Chuyên mục: Giáo dục, Lớp 11

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button