Giáo DụcLớp 10

Cảm hứng nhân đạo trong bài Đọc Tiểu Thanh kí

Bài văn mẫu Cảm hứng nhân đạo trong bài Đọc Tiểu Thanh kí dưới đây đã được Trường Tiểu học Thủ Lệ biên soạn một cách chi tiết nhằm giúp các em học sinh cảm nhận được sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du đến với số phận những người phụ nữ bất hạnh trong xã hội cũ. Mời các em cùng tham khảo nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Đọc Tiểu Thanh kí.

Bạn đang xem: Cảm hứng nhân đạo trong bài Đọc Tiểu Thanh kí

Contents

1. Sơ đồ gợi ý

2. Dàn bài chi tiết

a. Mở bài:

– Giới thiệu, dẫn dắt vấn đề: Cảm hứng nhân đạo trong bài Đọc Tiểu Thanh kí.

b. Thân bài:

* Giới thiệu về Nàng Tiểu Thanh.

* Hai câu đề:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

– Hoa uyển: Vườn hoa (Vườn hoa Tây Hồ: một cảnh đẹp cụ thể) – Dịch thơ: Cảnh đẹp: một vẻ đẹp chung chung

– Tẫn: đến cùng, triệt để, hết – Dịch thơ: Hóa => nhẹ hóa đi chưa lột tả hết được sự biến đổi khắc nghiệt của thời gian.

– Câu thơ gợi ra một nghịch cảnh giữa quá khứ và hiện tại: Vườn hoa bên Tây Hồ nay đã thành bãi đất hoang rồi => Gợi sự xót xa trước sự đổi thay, sự tàn phá của thời gian đối với cái đẹp.

– “Nhất chỉ thư” ” độc” trong “độc điếu”, làm giảm đi ý nghĩa của câu thơ.

→ Cô đơn nhưng tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn bất hạnh.

=> Sự đồng cảm của Nguyễn Du

* Hai câu thực:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu

Văn chương vô mệnh lụy phần dư

– Son phấn: Sắc đẹp

– Văn chương: Tài hoa

→ Ca ngợi sắc đẹp và tài năng của nàng Tiểu Thanh.

– “Chôn”, “đốt” là những động từ cụ thể hóa sự ghen ghét, sự vùi dập phũ phàng của người vợ cả đối với nàng Tiểu Thanh => Thái độ của xã hội phong kiến không chấp nhận những con người tài sắc.

→ Triết lí về số phận con người trong xã hội phong kiến: Tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân…cái tài, cái đẹp thường bị vùi dập → Bên cạnh triết lý đó còn có sự ca ngợi, sự khẳng định trường tồn, bất tử của cái đẹp, tài năng (“vẫn hận, còn vương”)

=> Giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du, sự xót xa cho những người vì sắc vì tài mà bị hủy hoại.

* Hai câu luận:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kì oan ngã tự cư

– “Cổ kim hận sự”: Mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp.

– Mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh.

→ Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng nàng Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà của tất cả những người tài hoa trong xã hội phong kiến.

– Thiên nan vấn: Khó mà hỏi trời được.

→ Đau đớn, phẫn uất cao độ trước một thực tế vô lí: Người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc.

– Kì oan: Nỗi oan lạ lùng

→ Nỗi oan do “nết phong nhã” gây ra. Vì có “nết phong nhã” mà mắc “oan khiên’ thì thật là điều nghịch lý, trái ngang của cuộc đời.

=> Sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh.

* Hai câu kết:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

– Nghệ thuật: Câu hỏi tu từ

→ Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh và băn khoăn, khóc cho chính mình: Tình cảm, cảm xúc thương thân mình, thân người trào lên mãnh liệt không kìm nén được.

=> Đó là nỗi cô đơn của nghệ sĩ lớn “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya” (Xuân Diệu).

c. Kết bài:

– Khẳng định giá trị nhân đạo trong bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí, ngòi bút nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Em hãy viết bài văn ngắn phân tích cảm hứng nhân đạo trong bài Đọc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du.

Gợi ý làm bài:

3.1. Bài văn mẫu số 1

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc là danh nhân văn hóa thế giới, là nhà thơ tiêu biểu trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Ông để lại cho đời số lượng lớn bài thơ trong đó có những sáng tác đạt đến trình độ cổ điển và mẫu mực, Trong đó phải kể đến bài thơ “Đọc tiểu thanh kí”, bài thơ được khơi nguồn từ hình ảnh người con gái tài hoa bạc mệnh.

Tương truyền Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có tài và có sắc, sống khoảng đầu thời Minh. Cô được biết đến là người con gái thông mình, nhiều tài nghệ thuật như thi ca, âm nhạc. 16 tuổi cô về làm vợ lẽ cho một nhà quyền quý. Vì vợ cả hay ghen bắt cô phải sống một mình trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Sống trong sự cô đơn, buồn tủi, Tiêu Thanh sinh bệnh và từ giã cuộc đời ở năm 18 tuổi. Vì quá thương thay cho thân phận người con gái tài hoa bạc mệnh nên Nguyễn Du đã viết nên bài thơ này. Mở đầu bài thơ với hai câu đề đã như tiếng trút lòng của Tiểu Thanh

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

Câu thơ không nhằm mục đích miêu tả cảnh đẹp Tây Hồ mà ngụ ý tác giả chỉ là mượn không gian để nói lên suy nghĩ, cảm nhận về sự biến đổi trong cuộc sống. Tây Hồ vốn được biết đến là cảnh đẹp có tiếng nhưng với cuộc đời của nàng Tiểu Thanh thì cảnh đẹp nơi ấy “hóa gò hoang”. Người nằm dưới lòng “gò hoang” kia là nàng Tiểu Thanh bạc mệnh chỉ để lại trên trần thế “mảnh giấy tàn” là phần di sản của Tiểu Thanh.

Từ những gì còn sót lại, tác giả mở ra cuộc đời của Tiểu Thanh:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu

Văn chương vô mệnh lụy phần dư

“Son phấn” là chỉ Sắc đẹp. Tác giả ca ngợi sắc đẹp và tài năng của nàng Tiểu Thanh. Hình ảnh ẩn dụ cho Tiểu Thanh- người phụ nữ có nhan sắc. Tiểu Thanh có linh thiêng chắc cũng phải xót xa vì chết vẫn chưa yên, đến tập thơ còn lại cũng bị đốt dở.

“Văn chương” là chỉ tài năng, trí tuệ của Tiểu Thanh. Văn chương không có số mệnh, không có tội tình gì cũng bị đốt dở. Tài hoa, trí tuệ của Tiểu Thanh cũng bị hủy diệt đến cùng. Hình ảnh Tiểu Thanh hiện lên là một người có tài năng, có nhan sắc, nhưng lại chịu số phận cay nghiệt (cái sắc bị chôn, cái tài bị đốt).

“Chôn”, “đốt” là những động từ cụ thể hóa sự ghen ghét, sự vùi dập phũ phàng của người vợ cả đối với nàng Tiểu Thanh. Nhà thơ bày tỏ thái độ của xã hội phong kiến không chấp nhận những con người tài sắc.

Câu thơ như gợi ra dòng nước mắt của Nguyễn Du chảy từ nàng Tiểu Thanh sang thân phận nàng Kiều, Đạm Tiên, nối tới những đắng cay của người ca nữ đất La Thành, người gảy đàn đất Long Thành, hội tụ thành bể đau nhức nhối trong trái tim nhân đạo của người nghệ sĩ.

Giọng thơ nghe vừa xót xa vừa bất bình, oán trách. Tác giả tiếc thương cho Tiểu Thanh – người tài hoa bạc mệnh; bất bình oán trách những người đã gây ra bất hạnh cho Tiểu Thanh, mà trực tiếp là người vợ cả; bất bình, oán trách với xã hội mà ở đó tài năng con người không được nảy nở, nhan sắc con người không được trân trọng

Từ sự đồng cảm, nhà thơ nâng lên thành triết lí về số phận con người trong xã hội phong kiến: Tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân…cái tài, cái đẹp thường bị vùi dập. Bên cạnh triết lý đó còn có sự ca ngợi, sự khẳng định trường tồn, bất tử của cái đẹp, tài năng (“vẫn hận, còn vương”). Giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du thể hiện rõ ở sự xót xa cho những người vì sắc vì tài mà bị hủy hoại:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kì oan ngã tự cư

“Cổ kim hận sự” chỉ mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp. Đây chính là mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng nàng Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà của tất cả những người tài hoa trong xã hội phong kiến. Hễ người có tài sắc lại bị chà đạp, vùi dập. Chuyện của Tiểu Thanh đã thành chuyện muôn đời, chuyện muôn đời dồn lại trong câu chuyện của Tiểu Thanh nên cái hận thành ghê gớm, khiến cho câu thơ thành dồn nén: chuyện xưa và chuyện nay.

“Thiên nan vấn” là nỗi lòng trắc ẩn, khó mà hỏi trời được vì đó là một thực tế, đã thành quy luật và chưa có lời giải đáp về sự vô lí đó. Giọng oán trách, bất bình khi nhà thơ ý thức về sự chà đạp tài năng và nhan sắc đang tồn tại trong xã hội phong kiến. Tác giả đau đớn, phẫn uất cao độ trước một thực tế vô lí: Người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc.

“Kì oan” là nỗi oan lạ lùng, phi lí. Nỗi oan do “nết phong nhã” gây ra. Vì có “nết phong nhã” mà mắc “oan khiên” thì thật là điều nghịch lý, trái ngang của cuộc đời.

Sự đồng điệu, đồng cảm: tự coi mình “cùng hội cùng thuyền”, cùng số phận và bi kịch (bị vùi dập, đơn độc…). Khóc vì cuộc đời dâu bể. Khóc thương Tiểu Thanh tài sắc mà bị đọa đầy, phải chết oan khuất. Khóc cho chính mình vì bị vần xoay bởi thời cuộc, phải sống trong nỗi cô độc không người cảm thông chia sẻ. Khóc cho những thân phận tài hoa bạc mệnh bị vùi dập…

Những oan khuất của nghìn đời ấy chỉ có trời mới hiểu “trời khôn hỏi” nhưng dẫu có biết thì cũng không thể làm gì được. Đó như một cái án của nhiều nạn nhân, nhiều con người trong cái xã hội lúc bấy giờ phải “tự mang”. Hai câu thơ khóc thương người nhưng dường như cũng để thương mình của Nguyễn Du đã thể hiện được tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo và cách nhìn sâu sắc của ông. Khép lại bài thơ với hai câu kết là những dòng suy tư, cảm nghĩ của chính nhà thơ về thời thế, thời cuộc:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

Khóc cho Tiểu Thanh của ba trăm năm trước bằng sự đồng điệu về suy nghĩ, thấu hiểu về cảm xúc nhưng nhà thơ đã tự vấn, hoài nghi và đặt câu hỏi cho chính mình. Một câu hỏi chứa đựng nhiều xót xa, nếu như ba trăm năm sau những vần thơ của Tiểu Thanh vẫn còn có Nguyễn Du thương cảm nhưng liệu ba trăm năm sau có còn “ai khóc Tố Như chăng”. Người đời khi ấy liệu có nhớ hay đã quên đến ông, câu hỏi như xoáy sâu vào suy nghĩ của người đọc. Câu thơ như bộc lộ nỗi bi phẫn của nhà thơ trước thời cuộc để rồi khóc thương người, nhà thơ tự khóc thương chính mình.

Nhưng đến ngày hôm nay, ai trong chúng ta đều biết đến, đều ghi nhớ đến Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một tượng đài bất từ của nền văn học Việt Nam bởi những tác phẩm đồ sộ mang giá trị cao đã và đang được lưu truyền cho các thế hệ sau.

“Đọc Tiểu Thanh kí” là một bài thơ để lại những thương cảm trong lòng người đọc về số phận bất hạnh của những con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Đồng thời qua đây, tác giả cũng đã phản ánh thực trạng xã hội phong kiến tàn ác đã đẩy con người vào những bước đường cùng, chà đạp lên nhân phẩm và lãng quên những giá trị mà họ đã để lại cho đời.

3.2. Bài văn mẫu số 2

Nỗi xót thương, đồng cảm với thân phận bất hạnh của người phụ nữ là một tình cảm rất đỗi nhân văn trong văn học dân gian được tiếp tục khơi nguồn trong văn học trung đại, trong đó, Nguyễn Du là một đại diện. Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du nói lên mối đồng cảm sâu xa đối với những người phụ nữ hồng nhan đa truân, tài hoa bạc mệnh. Chủ đề này còn được trở đi trở lại trong tác phẩm chữ Hán của ông, mà tiêu biểu là bài “Đọc Tiểu Thanh kí”. Bài thơ thể hiện nỗi xót xa, thương cảm trước những số phận những người phụ nữ tài sắc phải chịu oan khổ bất hạnh. Nhà thơ bày tỏ sự phẫn nộ, lời lên án đối với chế độ phong kiến bất công, vô nhân đạo đã chà đạp, vùi dập cái tài, cái đẹp.

Chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ, lớn lao, sâu sắc (mở rộng đối tượng cảm thương, không chỉ là những người phụ nữ bình dân lam lũ, bé nhỏ, bị phụ thuộc như trong ca dao mà còn thương thân phận những người phụ nữ xuất thân trong những gia đình quyền quý, có tài, có sắc song phải chịu số phận trớ trêu; không chỉ thương người mà còn thương mình).

Trong thơ văn trung đại, không phải ít hình ảnh những người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” là nạn nhân của cái quy luật “Hồng nhan đa truân”. Tuy nhiên, phải nói rằng chỉ đến Nguyễn Du mới xuất hiện cả một lớp người mang trọn cái kiếp số bạc mệnh ấy: Kiều, Đạm Tiên, người ca nữ đất Long thành…Số phận của họ nằm ở trong mạch cảm hứng chung của Nguyễn Du và thể hiện tấm lòng nhân đạo bao la của ông. Bởi thế dễ hiểu vì sao cuộc đời Tiểu Thanh-một người con gái xa về thời gian, cách về không gian lại nhận được sự cảm thông sâu sắc như thế từ nhà thơ. Tiểu Thanh cũng đầy đủ về tài hoa, nhan sắc, nhất là tài hoa văn chương, thơ phú. Cuộc đời cuối cùng cũng vùi chôn trong nấm mồi khi đang trong độ xuân xanh tuổi trẻ. Phần tinh hoa để lại cho đời cũng tiêu tan chỉ vì cái lòng ghen tuông ích kỉ, tàn ác của người vợ cả. Sự biến đổi đau thương ấy của cuộc đời nàng như được hiện hữu trong cảnh vật:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

Trong nguyên văn, Nguyễn Du dùng chữ “tận” như muốn xóa sạch mọi dấu vết của cảnh đẹp Tây Hồ, tô đậm thêm ấn tượng hoang vắng, tàn tạ của gò hoang. Sự biến đổi tang thương của cảnh gợi mối thương tâm đến người. Cảnh đẹp Tây Hồ giờ chỉ còn lại gò hoang cũng như tất cả những gì còn lại của Tiểu Thanh tài sắc chỉ là một mảnh giấy tàn, là phần dư cảo. Nhưng chỉ từng ấy thôi cũng khiến nhà thơ một mình thương cảm, xót xa mà khóc cho đời hồng nhan. Tiểu Thanh đời thực trong 300 năm trước cũng như nàng Kiều, người ca nữ đất Long thành đều phải hứng chịu.

Tài sắc của những con người ấy thì được ngợi ca là những giá trị tinh thần cao đẹp nhưng bản thân họ lại bị đày đọa, chà đạp. Nguyễn Du với tấm lòng nhân đạo bao la sâu sắc của mình đã thể hiện một sự đồng cảm, xót thương hết mức chân thành với số phận Tiểu Thanh. Đây là một nét mới mẻ trong chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du. Đối tượng mà Nguyễn Du thương cảm, quan tâm không chỉ là “thập loại chúng sinh” đói nghèo đau khổ. Rất nhiều tình cảm của ông hướng về những kẻ tài hoa.

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu

Văn chương vô mệnh lụy phần dư”

Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Theo quan niệm xưa, “son phấn” – vật trang điểm của phụ nữ có tinh anh (thần) vì gắn với mục đích làm đẹp cho phụ nữ. Cả 2 câu thơ cùng nhằm nhắc lại bi kịch trong cuộc đời Tiểu Thanh – một cuộc đời chỉ còn biết làm bạn với son phấn và văn chương để nguôi ngoai bất hạnh. Mượn vật thể để nói về người. Gắn với những vật vô tri vô giác là những từ ngữ chỉ cho tính cách, số phận con người như “thần” và “mệnh”. Lối nhân cách hóa thể hiện rõ cảm xúc xót xa của nhà thơ về những bất hạnh của kiếp người qua số phận của Tiểu Thanh. Kết cục bi thảm của tiểu Thanh xuất phát từ sự ghen tuông, lòng đố kỵ tài năng của người đời. Dù chỉ là những đồ vật vô tri vô giác thì chúng cũng phải chịu số phận đáng thương như chủ nhân : son phấn bẽ bàng, văn chương đốt dở. Hai câu thơ đã gợi lên sự tàn nhẫn của bọn người vô nhân trước những con người tài hoa. Đồng thời, cũng thể hiện nhận thức của Nguyễn Du vốn rất nhạy cảm trước cuộc đời của khách “hồng nhan bạc phận”, gắn với quan niệm “tài mệnh tương đố” của Nho gia. Vật còn như thế, huống chi người! Vượt lên mệnh là cả tấm lòng giàu cảm thương của Nguyễn Du.

Từ sự đồng cảm, nhà thơ nâng lên thành triết lí về số phận con người trong xã hội phong kiến: Tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân…cái tài, cái đẹp thường bị vùi dập. Bên cạnh triết lý đó còn có sự ca ngợi, sự khẳng định trường tồn, bất tử của cái đẹp, tài năng (“vẫn hận, còn vương”). Giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du thể hiện rõ ở sự xót xa cho những người vì sắc vì tài mà bị hủy hoại:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kì oan ngã tự cư

“Cổ kim hận sự” chỉ mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp. Đây chính là mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng nàng Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà của tất cả những người tài hoa trong xã hội phong kiến. Hễ người có tài sắc lại bị chà đạp, vùi dập. Chuyện của Tiểu Thanh đã thành chuyện muôn đời, chuyện muôn đời dồn lại trong câu chuyện của Tiểu Thanh nên cái hận thành ghê gớm, khiến cho câu thơ thành dồn nén: chuyện xưa và chuyện nay.

“Thiên nan vấn” là nỗi lòng trắc ẩn, khó mà hỏi trời được vì đó là một thực tế, đã thành quy luật và chưa có lời giải đáp về sự vô lí đó. Giọng oán trách, bất bình khi nhà thơ ý thức về sự chà đạp tài năng và nhan sắc đang tồn tại trong xã hội phong kiến. Tác giả đau đớn, phẫn uất cao độ trước một thực tế vô lí: Người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc.

“Kì oan” là nỗi oan lạ lùng, phi lí. Nỗi oan do “nết phong nhã” gây ra. Vì có “nết phong nhã” mà mắc “oan khiên” thì thật là điều nghịch lý, trái ngang của cuộc đời.

Sự đồng điệu, đồng cảm: tự coi mình “cùng hội cùng thuyền”, cùng số phận và bi kịch (bị vùi dập, đơn độc…). Khóc vì cuộc đời dâu bể. Khóc thương Tiểu Thanh tài sắc mà bị đọa đầy, phải chết oan khuất. Khóc cho chính mình vì bị vần xoay bởi thời cuộc, phải sống trong nỗi cô độc không người cảm thông chia sẻ. Khóc cho những thân phận tài hoa bạc mệnh bị vùi dập…

Từ sự thương người, ý thơ trong hai câu kết đột ngột chuyển sang thương mình. Đột ngột mà vẫn hợp lí bởi cả Tiểu Thanh và Nguyễn Du cùng tài hoa bạc mệnh:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Đây là câu hỏi tu từ. Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh và băn khoăn, khóc cho chính mình: Tình cảm, cảm xúc thương thân mình, thân người trào lên mãnh liệt không kìm nén được. Đó là nỗi cô đơn của nghệ sĩ lớn “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya” (Xuân Diệu).

Trong các tác phẩm của Nguyễn Du thì “Đọc Tiểu Thanh Kí” quả là một bài thơ mang chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc. Trong thơ ông luôn hỏi trời về những đau khổ của con người nhưng thực tế trong đó, Nguyễn Du lại cho thấy nguyên nhân nhưng đau khổ của con người là do những thế lực thù địch chà đạp lên cuộc sống và quyền sống chính đáng của con người. Ông ngầm lên án xã hội phong kiến thối nát. Nguyễn Du đau nỗi đau của con người, hiểu thấu được nguyên nhân của những bi kịch ấy nhưng Nguyễn Du bất lực bởi chính ông cũng là nạn nhân của những bể nhuộm cuộc đời đó. Nỗi đau của Nguyễn Du, sự cô đơn của Nguyễn Du, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đều xuất phát từ một trái tim nghệ sĩ lớn.

Đăng bởi: Trường Tiểu học Thủ Lệ

Chuyên mục: Giáo dục, Lớp 10

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button